Thơ Tân hình thức và cái khó của người sáng tạo

16:05 31/10/2011
THĂNG LONG (Nhân đọc Vũ điệu không vần - Tứ khúc - và những tiểu luận khác của Khế Iêm, Nxb Văn học, 2011)
[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Sự chuyển biến của diễn ngôn và cấu trúc là một trong những yếu tố tiên quyết để xác lập nên những cuộc cách mạng trong thi ca. Mặt khác thông qua những cuộc cách mạng mang tính đột phá trong tư duy của kẻ sáng tạo mà nghệ thuật hướng thượng không ngừng. Sự đổ vỡ của một hệ hình cũ sẽ là mầm móng phôi thai nên một khuôn diện mới của một hệ hình mới kế tiếp. Kể từ những quan niệm về nghệ thuật khởi phát từ các tiên triết như Platon hay Aris- tote, cho tới nay, thi ca đã không biết bao nhiêu lần thay đổi diện mạo trên quá trình hướng thượng của mình. Nhìn một cách tổng quát thì cho đến nay thơ Tân hình thức là một trong những diện mạo mới của thi ca nhân loại và đây cũng chính là một trong những địa hạt nghệ thuật đương đại có sức quyến rũ và làm khó đối với những kẻ sáng tạo mang ý hướng cách tân. Một cái nhìn nghiêm xác, thấu đáo về thơ Tân hình thức sẽ là những hướng đạo vô cùng cần thiết cho người sáng tạo cũng như người đọc ngày nay. Đặc biệt, ở trong lòng một quốc gia tiền hiện đại thì một sự diễn giải thấu đáo về thơ Tân hình thức sẽ như một cứu cánh để đưa văn chương Việt dần bước qua trời Tây. Vũ điệu không vần – Tứ khúc và những tiểu luận khác của Khế Iêm chính là những câu chữ mang tính dẫn đạo để đưa người sáng tạo cũng như người đọc Việt bước vào cái địa hạt thi ca đầy thách đố và quyến rũ - địa hạt thơ Tân hình thức.

Tiếp xúc với văn bản chúng ta thấy rằng Vũ điệu không vần – Tứ khúc và những tiểu luận khác đã có một cái nhìn tương đối tổng quan về thi ca nhân loại nói chung và thơ Tân hình thức nói riêng. Cái nhìn tổng quan thể hiện ở chỗ Khế Iêm đã đưa người đọc lội ngược dòng thi tính để tiếp cận với những yếu tố mang tính chất khởi thủy của bản mệnh thi ca. Từ cách tìm về lịch sử để truy tìm những yếu tố cấu nên thơ, Khế Iêm đã đưa ra một cái nhìn khái quát làm nền tảng trước khi đi vào những cách tân lẫy lừng của thơ Tân hình thức, từ đó người sáng tạo cũng như người đọc thơ Việt có thể kiến giải được vì sao những điều vượt ngưỡng về sự tri nhận trong lý tính thuần túy của nghệ thuật đương đại nói chung và thơ Tân hình thức nói riêng lại được coi là nghệ thuật.

Ngày nay, đứng trước những đổ vỡ của quan niệm thẩm mỹ truyền thống, người ta không khỏi băn khoăn, thậm chí hoài nghi về những gì mà nghệ thuật đương đại đang quảng diễn. “Thế mà là nghệ thuật ư?” là câu hỏi mà những kẻ mang cảm quan thẩm mỹ cổ điển thốt lên. Và thơ Tân hình thức cũng là một trong những đối tượng không ngoại lệ. Để xoa dịu những hoài nghi về tính nghệ thuật của thơ Tân hình thức - trung tâm của mọi diễn giải trong chuyên luận, Khế Iêm đã đưa người đọc đến với những đặc trưng, những quan niệm thẩm mỹ của thi ca nhân loại qua mỗi thời kỳ để từ đó phóng chiếu một cái nhìn nghiêm túc về những cách tân trong thơ Tân hình thức. Sự lược khảo về quá khứ của thơ do vậy là những diễn giải làm nền tảng để đi sâu vào đối tượng trung tâm của chuyên luận.

Bằng cái nhìn tổng quan, Khế Iêm đã đưa người đọc đi về “Những nẻo đường quá khứ” làm nền tảng để tri nhận những cách tân của thơ Tân hình thức hôm nay. Theo tác giả, ở thời đại phục hưng người ta “thiết lập một quy trình giáo dục đặt trung tâm vào văn phạm, lý luận và thuật hùng biện từ đó hướng con người tới thời hiện đại.” Dịch chuyển qua thời lãng mạn, nghệ thuật đi vào khai phá sự nhạy cảm của các giác quan, đi tìm sự thật tuyệt đối và công lý làm thăng hoa giá trị con người. Đến chủ nghĩa tượng trưng, qua sự biện giải của diễn giả, chúng ta nhận thấy người ta mơ tới một ngôn ngữ lý tưởng để diễn đạt thế giới ngoài vật chất. Thời hiện đại là “một bức tranh hoành tráng, đầy âm thanh và cuồng nộ gắn liền với những phong trào tiền phong như chủ nghĩa ấn tượng, lập thể, trừu tượng, biểu tượng trong hội họa, chủ nghĩa hiện sinh trong triết học, Dada siêu thực trong thơ…”. Từ những sự dịch chuyển tiệm tiến đó, cảm thức nghệ thuật và nhận thức về thế giới của người sáng tạo cũng có những thay đổi; sự thay đổi này luôn là sự chuyển đổi của diễn ngôn, cấu trúc và tư duy của kẻ sáng tạo. Những sự dịch chuyển và thay đổi này được Khế Iêm trình bày một cách khái quát nhất trong cái nhìn logic của sự vận động “Từ truyền thống đến tự do”.

Trong cách nhìn của Khế Iêm thì thơ ca cổ điển luôn nằm trong những luật tắc cứng nhắc, ít khi nó vượt thoát khỏi những chế định của niêm luật. Không nằm im trong những cái khuôn định sẵn là một trong những cách thức để thi ca hướng thượng, vì thế thơ tiền chiến thoát ra khỏi luật tắc cứng nhắc của thơ cổ điển bằng cách “dùng cảm xúc” để vượt qua những niêm luật. Thơ tiền chiến vượt thoát khỏi thơ ca cổ điển nhưng không phải là một cuộc bội ước ráo hoảnh mà vẫn “giữ lại vài yếu tố như vần (thường là cước vận), trau chuốt chữ và cách đọc ngừng ở cuối dòng…”. Dĩ nhiên trong sự tiến hóa thì có những yếu tố bị vượt qua. Những nhà thơ về sau, theo Khế Iêm, họ đã “phá bỏ thể loại và vần” và từ đó dẫn tới hàng trăm sự cách tân, khai mở. Sự khai mở đánh dấu bằng cách “sử dụng thi pháp đời thường thay thế thi pháp cảm tính”. Bội ước với những giấc mộng đêm qua, thơ dần dần xác lập một hướng đi mới, dần trở thành “tự nhiên như một dòng đời sống” để vươn tới những cách tân lẫy lừng như thơ Tân hình thức hiện nay.

Với sự dẫn lược về những đặc trưng thi pháp của thơ qua mỗi thời đại, mỗi hệ hình, chuyên luận đã trang bị cho người đọc những nền tảng cơ bản để từ đó soi chiếu vào những cách tân, vượt thoát của thơ Tân hình thức, để thấy rằng mọi sự thay đổi trong thi ca luôn phải được phôi thai từ những sự biến chuyển trước đó.

Từ những khái quát mang tính tổng quan, Khế Iêm đi vào diễn giải một cách cụ thể và nghiêm xác về thơ Tân hình thức, vì thế qua mỗi chương khúc, những vấn đề cốt lõi về thơ Tân hình thức dần được hiển lộ trong văn bản. Theo Khế Iêm: “Gọi là Tân hình thức có nghĩa là lấy những thể cũ (old form) tiêu biểu cho một nền văn hóa, một truyền thống, định hướng lại mang ý nghĩa vừa hòa tan vừa kết nối, giữa thời đại này và thời đại khác… Tân hình thức nối kết nhiều truyền thống, nhiều nền văn hóa. Khi phá vỡ ranh giới giữa cá thể và tập thể, Tân hình thức là một hiện tượng tự nhiên, vượt ngoài tinh thần trường phái,… là một hiện tượng tự nhiên, ai cũng như ai, bình đẳng và cùng bị cuốn vào trong một chuyển động lớn”. Về mặt thi pháp, thơ Tân hình thức là một mặt tích cực trong nhiều mặt của thơ Hậu hiện đại: “Thơ Tân hình thức gồm ngữ điệu tự nhiên và những câu nói thông thường, vắt dòng và kỹ thuật lặp lại. Vấn đề là sử dụng kỹ thuật lặp lại làm sao để chuyển nhịp điệu từ những biến cố tự nhiên thành nhịp điệu thơ, không bài thơ nào giống bài thơ nào, điều đó tùy thuộc vào tài năng và kinh nghiệm của mỗi nhà thơ, vừa đơn giản vừa phức tạp, là một ẩn số khó ai có thể nói trước…”. Nhìn chung Vũ điệu không vần - Tứ khúc - và những tiểu luận khác đã đưa đến cho người đọc những vấn đề cốt lõi về thi ca nói chung và thơ Tân hình thức nói riêng. Chỉ khi người đọc tiếp xúc trực tiếp với văn bản thì mới có thể nhìn thấy được sự nghiêm túc và ý nghĩa của công trình này.

Về thơ Tân hình thức Việt, theo lí giải của Khế Iêm, thì đó là sự “dứt khoát với những giấc mộng đêm qua”. Do tiếp nhận một số nguyên tắc thơ tự do phương Tây, cùng với đặc tính ngôn ngữ tiếng Việt, thơ Tân hình thức Việt có những đặc trưng sau: “Ngữ điệu, cú pháp văn phạm, sự lặp lại, tính truyện, cách đếm âm tiết và kỹ thuật vắt dòng. Dùng cách lập lại hình ảnh, ý tưởng, nhóm chữ, và vắt dòng, để thay thế vần ở cuối dòng…”. Là một trường hợp đặc biệt của thơ ca đương đại Việt Nam, thơ Tân hình thức “bắt đầu tìm kiếm một căn bản mỹ học, hình thành ngữ điệu đọc cho thơ, vượt ra ngoài khuôn khổ vần điệu Tiền chiến và Đường thi…”, vượt thoát khỏi những ràng buộc từ thơ ca truyền thống, vượt trên quan điểm thẩm mỹ của tư duy tiền hiện đại, xác lập một địa hạt riêng về tư tưởng và bút pháp, từ đó kết nối với thi ca đương đại thế giới.

Thơ Tân hình thức với những đặc trưng mỹ học của nó liệu có gây nên sự dị ứng nào đó đối với thi nhân và người đọc thơ ở một quốc gia Tiền hiện đại như ở Việt Nam. Dễ dàng nhận thấy tư duy tiểu nông đang bám víu trong cảm thức nghệ thuật của một số người sáng tạo Việt, vì thế cái mới, cái vượt qua sự tri nhận của lý tính thông thường như Tân hình thức tất yếu sẽ có những phản ứng ngược chiều. Thi gia Việt hiện nay đang đứng trước những cái khó riêng. Việc chấp nhận hay không những kiểu thi pháp mới lạ đối với tư duy người viết ở Việt Nam là một điều cần bàn để thơ Tân hình thức không chỉ dừng lại là những tín hiệu nhỏ lẻ, những manh nha khó đi đến tận cùng.

Đứng trước sự hỗn chứa của nhiều trào lưu sáng tạo khác nhau trong lòng một quốc gia tiền hiện đại, người viết trẻ Việt đương nhiên phải tự đốt đuốc tìm đường. Thành bại của người viết nằm trong sự lựa chọn địa hạt để triển khai tư tưởng và tùy thuộc vào đôi cánh văn chương của họ.

Nhìn một cách tổng quan nhất thì trong vô số nhà thơ hiện nay có thể thấy rõ sự xác lập hai khuynh hướng sáng tạo khác nhau. Khuynh hướng thứ nhất là những người mang ý hướng cách tân. Họ tự đốt đuốc tìm đường, muốn vượt thoát những tư duy cũ nhằm xác lập một diện mạo mới cho nền thi ca nước nhà. Do đó Tân Hình thức là một địa hạt luôn mê dụ họ. Khuynh hướng thứ hai là những người viết trung thành với diễn ngôn cũ và hệ hình đã ăn sâu vào tiềm thức và cảm thức nghệ thuật của họ. Thế giới của họ gần gũi với số đông, ít thấy sự đột phá, nhưng thực ra đối với sự đọc ngày nay ở Việt Nam thì họ là người của công chúng. Dĩ nhiên cái thuộc về đám đông thì ít hay nhiều cũng dung chứa những điều có ý nghĩa.

Khuynh hướng nào cũng dung chứa cái khó riêng.

Cái thuộc về đám đông tất nhiên là những cái quen thuộc, những sự vật đã định hình và găm sâu vào ý thức của con người. Và chúng là những sự vật dễ dàng tri nhận. Không khó để có thể nhận thấy dấu vết của tư duy nghệ thuật tiền hiện đại trong khuynh hướng sáng tạo thứ hai. Thế giới nghệ thuật của những người theo khuynh hướng này ít khi mang tính ẩn dụ. Hình ảnh trong tác phẩm ít khi xa rời với nguyên mẫu. Bút pháp tả chân luôn trung thành với khởi thủy của hình tượng. Tuy nhiên những người sáng tác theo khuynh hướng này vẫn có những cách thức chuyên biệt để làm hình tượng lệch pha với nguyên mẫu, nhưng trong tổng thể, vẫn là sự chi phối của quan niệm nghệ thuật là sự mô phỏng. Và đương nhiên đây là dấu vết của các quan niệm nghệ thuật khởi phát từ những tiên triết như Platon, Aristote. Vì thế thơ ca của họ dễ dàng được đám đông chấp nhận. Người đọc bình dân có thể khóc cười với thế giới nghệ thuật của họ. Tất nhiên những tác phẩm trong khuynh hướng này thường không có đột biến trong cấu trúc cũng như trong hành ngôn mà nặng về nội dung và chức năng tải đạo của văn bản. Tư duy, lý trí, trực cảm của người bình dân có thể bấu víu vào đây. Những giọt nước mắt có thể rơi xuống trên trang viết, những nụ cười có thể phát ra ngay khi vừa đọc lần đầu văn bản. Đám đông nói với thi nhân rằng tôi nhìn thấy tôi trong thế giới chữ của anh, tác phẩm của anh là tiếng lòng của tôi và từ đó đương nhiên họ sẽ tụng ca người khiến cho cảm xúc của họ được thăng hoa.

Nhưng cái khó của những người làm thơ theo khuynh hướng này là khó có thể vượt qua rào cản của biên giới địa phương hay biên giới quốc gia. Những đứa con tinh thần này có thể nhảy múa trong địa hạt nhỏ hẹp nhưng khi tung cánh lên không trung thì đôi cánh lại trở nên yếu mềm. Đám đông ca tụng họ nhưng những siêu độc giả, kẻ đồng sáng tạo lại quay lưng với họ. Những siêu độc giả cho rằng sáng tác của những người viết theo khuynh hướng thứ hai là những câu chữ bình dân chỉ để mà vơi dịu những cảm xúc đời thường, chỉ đánh lừa được những lý trí nghèo nàn, những cảm tính đơn điệu. Khi người đọc khó tính khai phá vào chiều sâu nội tại văn bản, họ không hề nhìn thấy gì ngoài những chi tiết mùi mẫn mô phỏng một cách gượng gạo hiện thực. Họ đòi hỏi văn bản ít ra cũng phải có một cái gì đó trong cấu trúc hay hành ngôn, hình tượng… Dưới sự soi chiếu, tri nhận của những siêu độc giả thì những vần thơ như thế là hệ quả từ kiểu tư duy tiểu nông đang bám víu một cách dai dẳng trong tâm thức của người Việt nói chung và trong tư duy của người sáng tạo nói riêng. Tư duy tiểu nông bộc lộ ngay trong hành ngôn, trong những hình ảnh đơn điệu khó vươn lên tầm biểu tượng, những diễn ngôn lỗi thời không bao giờ trở thành một màn quảng diễn trò chơi ngôn ngữ của thi nhân cao tay. Vì thế đối với họ thơ Tân hình thức vô cùng xa lạ, khó lòng chấp nhận một lối chơi xa rời với tâm thức người Việt. Nói chung siêu độc giả luôn cho rằng đây là những tác phẩm nghèo nàn, hệ quả của một cách viết thiếu lý luận, thiếu sự mở rộng nhãn quan trước sự biến chuyển ồ ạt của kĩ thuật thơ Tân hình thức Tây phương.

Trở lại với khuynh hướng thứ nhất, khuynh hướng của những nhà thơ năng động, tự đốt đuốc tìm đường. Có một hệ lụy rõ ràng nhưng họ lấy làm hãnh diện vì hệ lụy đó là họ không thuộc về đám đông. Những người sáng tạo theo khuynh hướng này luôn luôn chuyển biến trong tư duy và cảm quan nghệ thuật, nói một cách nghiêm xác thì họ là những kẻ cô độc trong khu vườn sáng tạo của mình. Tác phẩm của họ lệch pha đến tận gốc rễ đối với hiện thực khách quan, vượt xa sự mô phỏng, họ khiến quan niệm nghệ thuật là sự mô phỏng rơi vào tình trạng lâm nguy. Thế giới hình tượng trong thơ của họ xa rời tính bản nguyên của sự vật, một không gian phì đại, một thế giới thậm phồn ẩn chứa ngay trong cấu trúc. Người đọc đứng trước một sự thách đố về khả năng tri nhận tác phẩm. Tác phẩm viết theo khuynh hướng này luôn nằm trong thế lấp lửng giữa những cái khả tri và những cái bất khả tri. Lý tính thuần túy, trực cảm bình dân khó lòng chạm vào được chiều sâu nghệ thuật. Thậm chí đôi khi đến cái túi khôn duy lí của người đọc cũng phải bó tay. Bước vào nghệ phẩm đồng nghĩa với sự chấp nhận quyền năng siêu nghiệm của nghệ thuật. Tác phẩm viết theo khuynh hướng này như là lối chơi khó tri nhận của trò chơi ngôn ngữ lấp lửng lưỡng thê, giống như sự biến hóa trong kính vạn hoa của người phương Đông. Đó là thế giới bất quy luật, bất khả tri nhận, một thế giới bị xé lẻ trong kết cấu phân mảnh, một thế giới luôn hoài nghi về sự hiện hữu của chân lý, đạo đức… Không có cái gọi là sự thật trần trụi hiển lộ ngay trên bề mặt văn bản. Người đọc cần tìm thấy cái không hiển lộ, cái nghiệm sinh sâu kín trong thế giới vô thức, thế giới nội cảm của những điều hoang tưởng giấu kín trong tâm thức.

Tất nhiên những người viết theo khuynh hướng thứ nhất không thuộc về đám đông. Thậm chí một số người đọc nguyền rủa họ, xem họ như là những kẻ chơi khăm, những kẻ cuồng tưởng đả phá nghệ thuật. Thế giới của họ chờ đợi những diễn giải phù hợp để đám đông thấy chúng là nghệ thuật. Những người viết này là đối tượng của những siêu độc giả, những nhà phê bình lý luận có trách nhiệm với từng con chữ của mình. Xét ra về lâu về dài thì đôi cánh của họ có thể tung bay để kết nối thơ ca Việt Nam với thơ ca thế giới, để thơ Tân hình thức không chỉ là những mảnh vỡ nhỏ lẻ mà là một dòng chảy song song với nhiều dòng chảy khác trong lòng thi ca đương đại nước nhà.

T.L

(273/11-11)


-----------------------
* Những chữ in nghiêng trong ngoặc kép được chúng tôi trích dẫn từ trong công trình này của Khế Iêm.







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.

  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.

  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).