VƯƠNG HỒNG HOAN
Trong văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Bính là một thi sĩ được nhiều người yêu thích và trân trọng. Cuộc đời và thơ ông luôn luôn được nhắc đến trong bạn đọc nước ta hết thế hệ này đến thế hệ khác.
Ảnh: tư liệu
Nét đặc sắc nhất trong thơ Nguyễn Bính mà trong suốt gần ba chục năm cầm bút nhà thơ đã tạo một gương mặt, một bản sắc riêng trong văn học Việt Nam hiện đại nói chung và thơ ca lãng mạn 1932-1945 nói riêng: chân quê mà vẫn hiện đại.
Khi mới 13 tuổi, Nguyễn Bính đã nổi tiếng trong việc làm và ứng thơ. "Cô hái mơ" là bài thơ được đăng báo đầu tiên. Năm 1937, Nguyễn Bính gửi tập thơ "Tâm hồn tôi" dự thi và được giải thưởng Tự Lực Văn đoàn. Từ đó, thơ của Nguyễn Bính liên tục xuất hiện trên báo chí. Chỉ trong 3 năm 1940 - 1942, Nguyễn Bính đã cho ra mắt bạn đọc liền bảy tập thơ nổi tiếng "Lỡ bước sang ngang" (1940). "Tâm hồn tôi” (1941), "Một nghìn cửa sổ" (1941), "Người con gái ở lầu hoa" (1942), "Mây tần" (1942), "Mười hai bến nước" (1942) trong khi các nhà thơ đã nổi tiếng vài năm trước đó như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận... mỗi người cũng chỉ có một vài cuốn. Nguyễn Bính được đông đảo bạn đọc yêu mến chính vì "trong khi phần lớn các thi sĩ Thơ mới chịu ảnh hưởng của thơ phương Tây, thì Nguyễn Bính vẫn tha thiết với điệu thơ dân tộc, với lối ví von duyên dáng ý nhị mà mộc mạc của ca dao, nên thơ ông được nhiều người yêu thích... Thơ Nguyễn Bính đã ít nhiều đem lại cho phong trào Thơ mới ít nhiều màu sắc, hình ảnh, hương vị quê hương xa xưa” (Từ điển Văn học tập II NXB KHXH 1984 mục từ Nguyễn Bính trang 19).
Trong bài viết về thi nhân Nguyễn Bính tháng Tám 1941, hai tác giả của cuốn "Thi nhân Việt Nam" đã nhận xét rất tinh tế về hồn thơ chân quê mà vẫn dân tộc và hiện đại này: "Người nhà quê của Nguyễn Bính vẫn ngang nhiên sống như thường. Tôi muốn nói Nguyễn Bính vẫn giữ được bản chất nhà quê nhiều lắm. Và thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta. Ta bỗng thấy vườn cau, bụi chuối là hoàn cảnh tự nhiên của ta và những tính cách đơn giản của dân quê là những tính cách căn bản của ta. Giá Nguyễn Bính sinh ra thời trước, tôi chắc người ta đã làm những câu ca dao mà dân quê đã hát quanh năm và những tác phẩm của người bây giờ đã có vô số nhà thông thái nghiên cứu".
Cảm nhận thơ Nguyễn Bính nhiều người nhận xét thơ ông đã tiếp nhận được nguồn mạch giàu có vô tận của văn học dân gian nói chung và của ca dao nói riêng. Ngược lại chính sự tiếp thu vốn cũ ấy, thơ Nguyễn Bính đã có nhiều sáng tạo ý nhị, tinh tế làm cho người đọc hiểu sâu sắc hơn về ca dao xưa. Sự ảnh hưởng qua lại, tác động tương hỗ giữa thơ Nguyễn Bính và ca dao đã lý giải thấu lý, đạt tình sức sống của những câu thơ, những bài ca dao xao xuyến đến nao lòng như thế. Nguyễn Bính vận dụng ca dao rất sáng tạo ngay từ những nét nổi bật của nội dung và cả những thủ pháp nghệ thuật để từ đó tạo cho thơ ông vừa gần gũi thân quen vừa mới lạ. Trong bài thơ "Cô hái mơ'' cái hay nhất của thi sĩ là học cách nói lấp lửng của chàng trai thông minh tế nhị khi tỏ tình với bạn gái vừa quen biết:
"Hỡi cô con gái hái mơ già
Cô chửa về ư? đường thì xa
Mà ánh chiều hôm dần một tắt
Hay cô ở lại về cùng ta"
Rõ ràng, câu thơ cuối trong khổ thơ này, Nguyễn Bính đã dùng "đường cong giai điệu" (chữ dùng của Vưgốtxki), cách nói lấp lửng có duyên của chàng trai để bộc lộ tình cảm yêu đương thắm thiết.
Ở một bài thơ khác, vẫn là lối của tình yêu, nhưng lại biểu hiện qua cách nói của cô gái duyên dáng và kín đáo.
Nhà em cách bốn quả đồi
Cách ba ngọn suối, cách đôi cánh rừng.
Nhà em xa cách quá chừng
Em van anh đấy, anh đừng thương em"
(Xa cách)
Chìa khóa để giải mã bài thơ chính là từ những con số rất cụ thể mà lại mơ hồ từ bốn, ba, hai. Tại sao cô gái nói nhà cô "xa cách quá chừng" mà những đồi, những suối, những rừng lại cứ giảm dần từ nhiều đến ít. Thực ra cô gái đã yêu, yêu đến mức tha thiết phải "van người yêu đừng thương mình nữa". Nguyễn Bính có lý và thật nhạy cảm khi lần đầu trong tập "Tâm hồn tôi” câu thơ cuối là: "Em van anh đấy, anh đừng yêu em”. Giữa từ thương và yêu là sự lựa chọn của tác giả khi gửi thơ in trong "Thi nhân Việt Nam” năm 1941. Sắc thái tu từ của từ "thương" vừa rộng mở về nghĩa và có sự biểu cảm sâu sắc hơn nhiều với một từ "yêu" có phần nào ít duyên. Để diễn tả nỗi nhớ nhung sốt sắng, ca dao dùng cách ví von, so sánh:
"Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than"
Từ sự da diết và sâu lắng ấy, Nguyễn Bính biểu hiện nỗi nhớ của mình:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ, mười mong một người.
(Tương tư).
Thôn Đoài, thôn Đông là những địa danh quen thuộc trong ca dao, dân ca và nỗi nhớ vẫn là nỗi nhớ của chủ nghĩa cổ điển. Đến hai câu tiếp theo thì rõ ràng là cách nói của thi pháp lãng mạn:
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
"Bệnh tương tư" tuy không là cách nói mới nhưng khẳng định đó là "bệnh” của "tôi" thì quả thật chỉ có Nguyễn Bính mới lấy hiện tượng gió mưa từ đó làm nổi rõ tương tư là cái thuộc về trái tim, tâm hồn của con người đa cảm. Đúng như Đỗ Lai Thúy đã nhận xét "Hình như bầu tương tư chất chứa trong ông chỉ tìm cớ mà tuôn chảy. Đầu tiên là nhớ nhung trai gái, sau đó là cây cối nhớ nhau cuối cùng là miền không gian này nhớ miền không gian khác" (Đường về chân quê của Nguyễn Bính - Tạp chí Văn học số 6 năm 1991 trang 29).
Và vì vậy, trong thơ Nguyễn Bính, hệ quả của nỗi nhớ này là nguyên nhân của nỗi nhớ sau:
Nhà em có một giàn trầu
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?
(Tương tư)
Sự lựa chọn và xác lập một hướng viết: "chân quê" Nguyễn Bính đã quyết định một cách tự nguyện: "Anh về quê cũ thôn Vân. Sau khi đã biết phong trần ra sao". Nếu Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ... (thời Thơ Mới trước 1945) chủ yếu là thưởng ngoạn "cảnh quê", "tranh quê" thì Nguyễn Bính đi vào những cung bậc "tình quê", "hồn quê". Thơ Nguyễn Bính "chân quê" nhưng được biểu đạt bằng nghệ thuật động mang tính thời gian, khác xa nghệ thuật tĩnh mang tính không gian của các nhà thơ mới nói trên.
Vậy thơ Nguyễn Bính dân tộc và hiện đại thể hiện ra sao? Điều này, quả là dễ hiểu một khi ta hãy bình tâm, lặng lẽ cảm nhận, suy ngẫm mỗi dòng thơ của thi sĩ. Chẳng phải tìm đâu xa, đọc lại vài câu trong bài "Người hàng xóm" (in trong tập "Tâm hồn tôi" 1941) ta cũng đã rõ: Nguyễn Bính làm thơ như một sự tâm tình với bạn thâm giao:
"Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn
Hai người sống giữa cô đơn
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi
Giá đừng có dậu mùng tơi
Thể nào tôi cũng sang chơi thăm nàng".
Cái mới trong khổ thơ này không phải gọi người yêu là "nàng", một cô hàng xóm quen biết mà chính là cái tâm trạng "cô đơn", "nỗi buồn" của cái "tôi" mang tính thời đại mà tác giả Thi nhân Việt Nam đã lý giải đầy sức thuyết phục và rất thơ hơn nửa thế kỷ nay. Cho đến bây giờ đọc lại ta vẫn bàng hoàng, thán phục thi sĩ khi ông đặt bút viết câu thơ rất tài hoa và đa tình khó quên:
... "Cái gì như thể nhớ mong?
Nhớ nàng? Không! Quyết là không nhớ nàng!
Vâng, từ ân ái nhỡ nhàng
Lòng tôi riêng nhớ bạn vàng ngày xưa".
Những câu hỏi tu từ, những dấu chấm hỏi, chấm than, chấm phẩy như có hồn trong câu thơ đã diễn đạt tâm hồn xao động, trầm lắng, náo nức và hồi hộp, say đắm và đợi chờ... của thi sĩ. Có lẽ, chỉ vậy thôi, chúng ta cũng dễ thừa nhận và được thơ Nguyễn Bính minh chứng cho sự chân quê mà hiện đại như thế nào. Không hiểu sao mỗi lần đọc thơ Nguyễn Bính trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, hình ảnh "cái dậu mùng tơi xanh rờn" và câu thơ: "Có gì như thể nhớ mong? Nhớ nàng! Không! Quyết là không nhớ nàng" vẫn cứ vấn vít, ám ảnh xao xuyến trong tình cảm của một bạn đọc bình thường như tôi. Và tôi tin, có lẽ tình cảm ấy, ít nhất là một lần đến với đông đảo bạn đọc yêu thơ Nguyễn Bính.
Huế, tháng 10.1996
V.H.H
(TCSH95/01-1997)
MAI VĂN HOAN (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!
PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).
TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.
NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.
Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.
XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.
Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.
HUỲNH HẠ NGUYÊN (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...
LÊ MỸ Ý (L.M.Y): Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.
Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.
NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.
NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".
NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.
PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi
NAM NGỌC (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.
BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.
HOÀNG VŨ THUẬT (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.
ĐINH NAM KHƯƠNG (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao: “...Hình như hắn là nhà quê Hình như hắn từ quê ra...” (Gốc)
NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.