Thơ miền Trung đang nói gì

09:09 21/08/2009
HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật - Ảnh: maivanhoan.vnweblogs.com

Người Quảng Bình, Quảng Trị còn tự hào được sống trên đất đai mà ông vua Chiêm lãng tử cắt ra, làm sính lễ cho đám cưới công chúa vua Trần - Trần Huyền Trân. Một chuyện tình đầy lãng mạn, bi tráng, pha chút ngông cuồng. Chuyện tình ấy như câu thơ miền Trung vừa có cái hương vị ngọt ngào, đằm thắm, vừa có cái đau thương, thấm đẫm của sự bạo liệt.

Với lẽ đó, tôi xin được bày tỏ đôi điều về thơ miền Trung hôm nay. Thơ đang nói gì trong sự vận động, chuyển hoá của cảm thức trước giao thời lịch sử?

Cám ơn các thế hệ nhà thơ đã đi qua suốt thể kỷ 20. Có thể lấy mốc từ phong trào “Thơ Mới” trở về sau làm ví dụ.

Nhưng phải nhìn nhận rằng, thơ miền Trung ngày nay không hoàn toàn nằm trong đường hướng chi phối của phong trào “Thơ Mới” được khởi xướng từ năm 1932, cũng không phải là bước phát triển tiếp theo của “Thơ mới”. Từ sau Cách mạng Tháng 8 đến năm 1975, xu hướng hiện thực đã là cốt lõi của thơ. Đây là thời kỳ thơ miền Trung làm công việc kháng chiến, kiến quốc. Thơ vào cuộc, tạm thời dấu mọi ngóc ngách riêng tư của con người, nén chịu đau thương mất mát để nói tiếng nói chung, đồng điệu về tâm hồn và gặp nhau về quan phương sáng tạo. Nhiều nhà thơ trước khi cầm bút họ từng cầm súng, cầm phấn cầm cuốc xẻng. Thơ anh hùng và nhà thơ cũng anh hùng.

Từ năm 1975 trở đi, nhất là thời kỳ đổi mới, thơ miền Trung có sự chuyển hướng đáng kể. Điều này chứng minh mỗi khi tiêu chí xã hội rộng mở, thơ luôn luôn cập nhật với đời sống thay đổi, diễn ra mọi nơi, mọi lúc. Đây là thời kỳ mà quyền sáng tạo của nhà thơ được tôn trọng, được đề cao. Họ có thể viết cái mà đôi khi suốt cuộc đời bị dồn nén chưa có điều kiện bộc lộ. Họ có thể vạch đường riêng cho mình mà bấy lâu ngõ hầu bị cánh rừng chung che phủ. Họ có thể tìm tòi, thể nghiệm cái chưa thấy, chưa nghĩ tới bao giờ. Thơ len lỏi cả vào những vùng khuất lấp của bản thể con người. Miễn sao vươn tới cái đích cao cả của nghệ thuật, vươn tới chính bản thân thơ.

Sự chuyển hướng thơ thời kỳ này là cuộc trắc nghiệm về nhận thức, nhìn lại chính mình nên nó phát triển khá phong phú, nhiều màu sắc: siêu thực - hiện thực, vô thức - ý thức,cảm giác - trực giác, ngôn ngữ - thoát ly ngôn ngữ... Có lẽ cũng vì thế mà các nhà thơ đã làm quấy đảo tâm trí nhiều nhà phê bình, kinh điển và những nhà phê bình mới xuất hiện chăng?..

Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự phân hoá đội ngũ những người làm thơ thuộc nhiều thế hệ. Nhiều người cho rằng, bấy lâu anh viết thế nào thì nay hãy viết thế ấy. Nhiều người tìm cách bứt phá chính mình để đi đến cái mới hơn, hợp lý hơn. Nhiều người phủ nhận cái đã qua và chọn cái hoàn toàn mới lạ, đôi khi còn xa lạ nữa.

Nói gì thì nói, nhưng khi đọc từng tác giả, ai cũng thừa nhận mỗi người đều có sự chuyển dịch, thay đổi cả về phương hướng sáng tác và quan điểm thẩm mỹ. Có một Thanh Thảo ngoài Thanh Thảo, Một Nguyễn Duy ngoài Nguyễn Duy. Một Thạch Quỳ, Nguyễn Trọng Tạo, Bùi Minh Quốc, Ngô Thế Oanh, Thanh Quế, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Thị Mây. Một Ngô Minh, Nguyễn Khắc Thạch, Lê Văn Ngăn, Ngân Vịnh, Đông Trình, Inrasara, Hồng Nhu, Hải Kỳ, Xuân Hoài, Vĩnh nguyên. Một Từ Quốc Hoài, Nguyễn Văn Chương, Nguyễn Thanh Mừng, Trần thị Huyền Trang, Lệ Thu. Một Văn Đắc, Dương Ánh, Văn Công Hùng, Mạnh Lê, Mai Ngọc Thanh, Nguyễn Ngọc Phú... nằm ngoài họ. Sự thay đổi mặc nhiên, đến mức đôi khi tự thân nhà thơ không thấy được. Bởi không ai chịu viết lại cái cảm xúc mình đã viết rồi, đi lại trên những lối mòn quá quen thuộc đã đi.

Vấn đề đặt ra là, không chỉ tôn trọng các quan điểm sáng tác, các xu hướng sáng tác đa chiều, đa phương là đủ, mà nhà văn phải tôn trọng lao động của nhà văn. Đó chính là tôn trọng quyền năng sáng tạo mà hàng chục năm qua do hoàn cảnh lịch sử, nhà văn buộc phải tạm thời chối bỏ, tuyệt đối hoá phương pháp sáng tác vì một mục tiêu chung của cả dân tộc. Sự nghiệp đổi mới văn học trả về cho văn học đúng bổn phận của nó. Đây là điều phát triển tất yếu của một nền văn học chân chính. Nhưng không phải không làm cho nhiều nhà văn ngỡ ngàng, băn khoăn bởi một thói quen từng ngự trị trong tư duy bấy lâu. Hình như do chưa quen với môi trường mới - môi trường tự do sáng tạo, nên có tình trạng nhà văn lạ lẫm trước những thi pháp sáng tạo mới, hoặc không chịu công nhận nó. Thực chất đó cũng là biểu hiện của tính ích kỷ, bảo thủ nghệ thuật, tư tưởng cực đoan, làm kìm hãm sự phát triển của nền văn học thời mở cửa.

Từ khiếm khuyết này, không ít tờ báo, tạp chí địa phương thực hiện phương châm “bế quan toả cảng” nghệ thuật. Tỉnh nào đăng bài tỉnh đó, thiếu mở rộng giao lưu, trao đổi, học hỏi, bổ sung cho nhau, ắt sẽ rơi vào tình huống tự bằng lòng, thoả mãn việc mình đã làm, đội ngũ mình đã có. Ấy là chưa nói đến bệnh ấu trĩ, tụt hậu trong nhìn nhận, đánh giá văn học thiếu khách quan, qui chụp, thái quá ở một số nơi, một số tờ báo đã làm.

Những năm gần đây miền Trung xuất hiện một thế hệ những người làm thơ trẻ, như Văn Cầm Hải, Phạm Nguyên Tường, Hải Trung ở Huế, Nguyễn Hữu Hồng minh, Trần Tuấn ở Đà Nẵng, Lê Thị Mỹ Ý ở Quảng Bình, Nguyễn Thị Thái, Lê Vĩnh Tài ở Đắc Lắc, Phùng Tấn Đông ở Quảng Nam, Phan Tùng Lưu ở Hà Tĩnh, Nguyễn Văn Hùng ở Nghệ An... Họ đang nói gì với thơ miền Trung hôm nay? Họ là ai trong dòng chảy văn học đương đại.

Đọc các tác giả này mỗi người có một bước đi riêng, không ai giống nhau. Giống chăng ở những ý tưởng táo bạo, mạnh mẽ, những khuynh hướng sáng tác mà các nhà thơ lớp trước còn băn khăn. Mỗi người trong số họ là một dấu hiệu, một tín hiệu. Thừa nhận họ hay không thừa nhận? Hạ thấp, đề cao, hay chờ xem? Điều đáng lưu tâm, khi các nhà thơ trẻ này viết bằng thể loại truyền thống như lục bát, thất ngôn, tứ tuyệt, thì cấu tứ, hình tượng ngôn ngữ, chất thơ vẫn rất mới, đủ làm cho chúng ta suy nghĩ.

Vậy mà trong số các nhà thơ trẻ này đã có người phải chịu nhiều tai tiếng, thậm chí còn coi họ như kẻ quấy nhiễu địa hạt bình yên của thơ ca. Trong khi họ đến với thơ bằng tấm lòng trong sáng, thiện cảm, mong mỏi mình sẽ làm được điều gì đó, cho dù rất nhỏ ở chặng đầu tiên cuộc đời.

Tại sao trong chúng ta có người lại không lấy làm vui mừng, trân trọng trước sự ra đời của thế hệ cầm bút mới? Tại sao chúng ta không đặt vào nơi họ một niềm tin, hy vọng ở họ? Giả sử có những quan điểm chưa thật sự thống nhất, cũng nên bình tĩnh trao đổi trên tinh thần xây dựng, lấy học thuật làm chính. Chẳng lẽ thế kỷ 21 lại chờ đợi ở những người cầm bút hôm qua, mà hẹp vòng tay đón nhận những người cầm bút thế hệ mới hôm nay?

Sau cùng tôi xin được đề cập thêm vai trò đối tác của thơ. Hàng chục năm qua độc giả quen thơ như thứ ngôn ngữ đời thường, bởi cái chất đời thường, ý tưởng, hình tượng dễ hiểu, dễ nhớ, đễ thuộc. Giờ đây bên cạnh luồng mạch thông dụng kia, xuất hiện nhiều luồng mạch mới hơn, lạ hơn. Tự nhiên như thể thơ đang rời bỏ công chúng. Hoặc nói ngược lại công chúng đang quay lưng với thơ. Chẳng lẽ để được công chúng dễ dàng chấp nhận, thơ phải “án binh bất động”, cam chịu sự già nua của thời gian hay sao? Thưa rằng liên tục vận động để thể hiện thiên chức của mình là con đường duy nhất tồn tại của thơ. Không có sự vận động nào mà không làm thay đổi, chuyển hoá sự vật, chuyển hoá cả đời sống tinh thần, tư tưởng con người.

Nhà thơ Henri Deluy sinh năm 1931, được coi là một trong các nhân vật chủ chốt của thơ Pháp đương đại vừa sang Việt Nam, ông phát biểu rằng: “Tôi tin không có nhà thơ nào cố tình làm cho thơ mình khó hiểu. Song cần chú ý điều này: Thơ không phải là một sản phẩm tự nhiên như mấy thứ trái cây trên bàn này, thơ là sản phẩm văn hoá, trong một bài thơ hôm nay có tất cả quá khứ của thơ dân tộc và nhân loại. Cho nên thơ khó là tất nhiên. Thưởng thức thơ cũng đòi hỏi tập luyện như xem tranh, nghe nhạc vậy. Không thể đòi nhà thơ viết dễ đi để cho người có trình độ thấp nhất hiểu được, tại sao không làm ngược lại là nâng cao trình độ thưởng thức của quần chúng?” (+).

Rõ ràng việc nâng cao trình độ thưởng thức thơ của công chúng là cấp thiết, bức bách. Đây không phải đòi hỏi riêng của thơ, mà là sự đòi hỏi của dân trí, của văn hoá trong sự phát triển.

Nếu chúng ta coi công việc đổi mới của đất nước mang lại cho thơ sự đổi mới sâu sắc trong tư duy và nghệ thuật sáng tạo, thì cũng nên đặt ra vấn đề đổi mới thưởng thức nghệ thuật của công chúng. Được như vậy thơ sẽ có quảng trường rộng mở, thênh thang cho mọi thế hệ nhà thơ bình đẳng tới đó mà không bị vướng bận, liên lụy bất cứ điều gì.

H.V.T
(184/06-04)

-------------
(+) Báo Lao Động Chủ Nhật số: 203/2002, ngày 4/8/2002

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   (Tiếp Sông Hương số 11-2008)Bản thể con người chỉ cấu trúc bằng cảm giác và những gì là biến tướng khả dĩ của cảm giác mà không từ bỏ cấu trúc thiên định bao gồm kết cấu thực và kết cấu ảo của cảm giác. Nếu hình dung kết cấu thực là trạng thái mô phỏng thế giới, nghĩa là cái quan hệ hấp dẫn giữa xung động thần kinh não bộ con người với xung động tiếp nhận thế giới, thì chúng ta hình dung được kết cấu ảo chỉ là sản phẩm thuần tuý do xung động nội tại của thần kinh não bộ con người.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGPhân tâm học ra đời trong ánh bình minh của thế kỷ hai mươi. Ảnh hưởng của nó đối với sáng tạo và phê bình văn học khởi đi từ cuốn “Diễn dịch các giấc mơ” của Freud và được nối dài sau đó bởi nhiều công trình của các tác giả khác nhau.

  • CAO HUY THUẦNToàn cầu hóa đang là một xu thế, một hiện tượng rộng lớn bao trùm khắp thế giới, không chỉ về kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa và đời sống. Toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa đã trở thành vấn đề thời sự của thế giới. Trong bối cảnh đó, yêu cầu gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một đòi hỏi cấp thiết, có tính sống còn của mỗi dân tộc khi phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.Sông Hương xin giới thiệu một phần bài viết của Cao Huy Thuần như một góc nhìn thú vị về những vấn đề gai góc của thời đại.

  • NGUYỄN VĂN DÂN(*)LTS: Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ 2 của Hội Nhà văn Việt Nam diễn ra 2 ngày 4 và 5 tháng 10 năm 2006 đã khép lại nhưng âm vang của nó vẫn còn “đồng hiện” theo 2 cực... buồn vui, cao thấp. Song, dù sao nó cũng đã phản ánh đúng thực trạng, đúng “nội tình” của đời sống văn học nước nhà.

  • PHẠM PHÚ PHONGMấy chục năm qua, người đọc biết ông qua những kịch bản thơ, những bài thơ viết về tình bạn, tình yêu; về những cuộc chia tay lên đường ra trận; về đất và người Hà Nội đầy khí thế hoành tráng của tâm thế sử thi; nhưng cũng có khi bí hiểm, mang tâm trạng thế sự buồn cháy lòng của một người sống âm thầm, đơn độc, ít được người khác hiểu mình.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Tư- duy tự- do của Phan Huy Đường*)

  • TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆN(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lan Khai (1906-2006)Đầu năm 1939, Vũ Đình Long, chủ Nhà xuất bản Tân Dân có sáng kiến xin giấy phép xuất bản ấn hành tạp chí TAO ĐÀN. Đây là tạp chí chuyên ngành về văn học đầu tiên trong làng báo ở ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.

  • NGUYỄN TÀI CẨN, PHAN ANH DŨNG1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn Đường 1871”. Chúng tôi thành thực hoan nghênh: hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi.

  • TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.

  • THỤY KHUÊLGT: “Thụy Khuê là một nhà phê bình văn học Việt Nam sắc sảo ở Pháp” (Trần Đình Sử, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXBGD Hà Nội, 2005) Bà đã viết về mục tác giả Bùi Giáng và một số tác giả miền Nam trước 1975 cho “Tự điển văn học” bộ mới. Bài viết về Thanh Tâm Tuyền cũng dành cho bộ Từ điển nói trên. Chúng tôi đăng bài viết này để tưởng nhớ nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa mới qua đời.

  • HỒ THẾ HÀĐồng cảm và sáng tạo (*): Tập phê bình-tiểu luận văn học mới nhất của nhà phê bình nữ Lý Hoài Thu. Tập sách gồm 30 bài viết (chủ yếu là phê bình-tiểu luận và 5 bài trao đổi, phỏng vấn, trả lời phỏng vấn), tập trung vào mảng văn học hiện đại Việt Nam với sự bao quát rộng về đề tài, thể loại và những vấn đề liên quan đến phê bình, lý luận văn học, đời sống văn học từ 1991 đến nay.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHôm Tết vừa rồi, anh Đỗ Lai Thúy ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú.

  • TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.

  • INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.

  • TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.

  • HỒ THẾ HÀVới điểm nhìn ngược chiều từ khởi đầu thế kỷ XXI (2006) hướng về cội nguồn khai sinh vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế (1306), chúng ta thấy vùng đất này đã có 700 lịch sử thăng trầm, vinh quang và bi tráng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.