Thơ Huế lẽ nào không Huế

14:32 11/12/2008
PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.

Thơ của người Huế viết thì không chỉ viết riêng về Huế mà viết đủ mọi đề tài, nhưng người Huế đây lại là người nào: người gốc Huế dù đang sống ở Huế hay đã xa Huế, người nơi khác nhưng đã sống hay đang sống ở Huế. Có lẽ là cả hai. Phân định thế này nghe có vẻ phân biệt quê hương bản quán, nhưng một tiêu chí rõ ràng lại là cần thiết khi làm một tuyển tập mang tên Thơ Huế để tránh hai cực: hoặc rộng quá thành vơ vào, hoặc hẹp quá thành đẩy ra. Khéo mà ở đây phải dùng thuyết tương đối của Albert Einstein, có rộng và hẹp. Thơ Huế rộng là thơ viết về Huế. Thơ Huế hẹp là thơ của người Huế viết. Mà như thế là vinh danh cho Huế, một vùng, một xứ thuộc số ít địa danh trên toàn cõi Việt rất nên thơ và có rất nhiều thơ. Trong bài này, tôi dùng “thơ Huế” với nghĩa là thơ viết về Huế, tức là thơ Huế rộng.

Huế đẹp và thơ! Thiên nhiên và lịch sử đã cho Huế một vị thế, một ý nghĩa để trở thành nguồn cảm xúc dồi dào cho nhiều thế hệ thi nhân. “Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được / Nét dịu dàng pha lẫn trầm tư” (Nguyễn Thị Thanh Bình). Tất cả, có lẽ thế, thơ về Huế đều đã bị đóng khuôn, bị điều kiện hóa trong nội dung mà hai câu thơ trên đây diễn đạt. Thơ Huế đa cảm và đa tình. Thi liệu như đã thành cổ điển: sông Hương núi Ngự, lăng tẩm đền đài, nón trắng áo tím, ai bình. Có thể tuyển được những tập thơ về từng đặc điểm riêng của Huế, như thơ về lăng tẩm, thơ về sông Hương, thơ về mưa Huế, thơ về gái Huế. Thi cảm như đã thành khuôn: mộng mơ và buồn bã. Thi tứ như đã thành nếp: hoài niệm và trầm tư. Ai bước chân đến Huế cũng là mang tâm trạng Nguyễn Bính “Hôm nay có một người du khách, Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên”. Bề dày và bề sâu lịch sử, văn hóa, tình cảm của một vùng đất cố đô đã tạo nên Huế thơ và khơi dòng thơ Huế rất định hình riêng biệt.

Bài thơ dưới đây của Huy Tập, một người quê gốc Nam Hà nhưng từng sống và làm việc ở Huế tôi dẫn ra như một thí dụ xem xét dưới góc độ thơ Huế bị quy định và ràng buộc thế nào bởi địa lý phong thủy tâm tình của một vùng đất.
Nếu như chẳng có sông Hương
Gửi tình cho Huế gửi thương nơi nào
Nếu như nước chẳng ngọt ngào
Áo em sao lại tím màu thủy chung
Nếu như chẳng có dòng sông
Câu thơ ai chở xuôi dòng Huế thơ
Nếu như nước chảy ngẩn ngơ
Câu thơ áo tím anh chờ Huế ơi
Ai qua Huế một lần thôi
Mang đi từ Huế ngọt lời nhớ thương
Nếu như chẳng có dòng Hương
Câu thơ xứ Huế giữa đường đánh rơi
Thương màu tím Huế đầy vơi
Sông Hương xanh suốt những lời cho nhau
Nghĩa là, thơ Huế lẽ nào không Huế! Dịu dàng quá, dịu dàng không chịu nổi. “Huế đẹp tưởng chừng không có thực” (Ngô Thế Oanh). Và thơ Huế chuyên chở cái “tưởng chừng” đó trong dạt dào cảm xúc lãng mạn u buồn sâu lắng nhẹ nhàng. Trong nhiều bài thơ về Huế có khá nhiều bài hay theo mạch cảm xúc này. Ngay hai câu thơ Thu Bồn phát hiện cái lững lờ của dòng Hương khiến đọc lên giật mình ngỡ ngàng “Con sông dùng dằng con sông không chảy / Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu” rất hay, nhưng vẫn là trong mạch chảy của một điệu cảm.

Nhưng, thơ Huế lẽ nào không Huế.
Tôi nhớ có lần đã ngạc nhiên thích thú khi nghe ca sĩ đại ngàn Ymoan hát bài hát “Thành phố hoa phượng đỏ” theo kiểu rock. Bài hát vang lên trong một giai điệu tiết tấu khác lạ như nó vốn từng quen nghe đã cho tôi những khám phá, phát hiện mới, dẫu ca từ vẫn đã thuộc lòng. Gần đây, việc ca sĩ Thanh Lam “làm mới” những ca khúc Trịnh Công Sơn có gây những dư luận phản ứng khác nhau, nhiều phần là chê, nặng lời hơn thì bảo là phá nhạc Trịnh. Tôi thì nghĩ khác: ai cấm những thử nghiệm hát nhạc Trịnh khác cách lâu nay từng hát? Nói cách khác, ai quy định nhạc Trịnh là chỉ được hát theo một kiểu tạm gọi là à la Khánh Ly? Nghe Lam hát Trịnh tôi tưởng như thấy dòng Hương hiền hòa thoắt hóa “sông dài như một lưỡi gươm giữa trời” (“Trường giang như kiếm lập thanh thiên”) trong mắt nhìn của ngông sĩ họ Cao. Huế như nhạc Trịnh vậy, lâu nay bị “bắt chết” ở một góc nhìn, góc cảm. Thơ Huế, thơ về Huế, cần có những Chu Thần, những Thanh Lam để lạ hóa, để làm mới cách cảm, cách nhìn của một vùng đất, một vùng thơ.

Huế có sông An Cựu nắng đục mưa trong. Cái nghịch lý, ngược đời đó cũng là một nét tính cách Huế. Huế như là thống nhất của mâu thuẫn. Hay nói như nhà văn Túy Hồng một thời: “Huế của tôi không bao giờ khóc người đi và cũng chẳng bao giờ mừng người trở lại. Huế của tôi không yêu ai mà cũng chẳng phản bội ai. Huế thừa lẽ sống nhưng thiếu kẻ sống”. Dòng Hương Giang là dòng thơ làm bao thi nhân mộng mơ với điệu slow dịu êm của nó. Nguyễn Bính liên tưởng chuyện cung nữ mới thấy “Hai bờ hai cánh tay vua / Cung nga úp mặt làm thơ thất tình”. Dòng Hương thất tình này mãi đến Lê Thị Mây mới thấy lại khi nhà thơ nhìn đám mây trôi trên sông không phải chiếc áo, không phải tấm khăn quàng, mà là “mái tóc của cô gái trẫm mình”. Một nhớ chuyện xưa, một nói chuyện nay. Và dòng Hương của thi ca nhạc họa xứ Huế đã chảy theo một mạch khác. Mạch cảm xúc này tạo nên cái “không Huế”, phá bỏ cái lững lờ quen mòn áp cho sông, cho thơ lâu nay.
Hãy đọc bài thơ này của Phan Huyền Thư:

HUẾ

Đêm trườn dần vào sông Hương
tiếng hò vỡ dưới gầm Trườâng Tiền

Khúc Ai những cung phi goá bụa
chèo thuyền vớt xác mình trên sông

Nhất dạ quân vương đất thần kinh
người đi đi, làm thơ cho Huế tím
 
Tự phá vỡ đối xứng
bằng nón nghiêng
quang gánh lệch
                                    mắt nhìn ngang
Huế như nàng tiên câm
khóc thầm không nói.

Muốn thì thầm vuốt ve Huế thật khẽ
lại sợ chạm vào nơi nhạy cảm trên cơ thể Việt .

Đây là một Huế khác trong một cách nhìn, cách cảm khác của thơ. Bài thơ như một cuốn phim quay các góc độ Huế và rồi ống kính chiếu tập trung vào chỗ thắt, điểm lõm mà Huế được đặt vào trên dải đất hình chữ S. Huế trong bài thơ này là “nơi nhạy cảm trên cơ thể Việt ”. Và thế là Huế đã được “lạ hóa”, Huế đã được đánh thức, Huế đã thành không Huế. Phải thế chăng mà bài thơ hay này cũng đã bị thành nhạy cảm khiến nó không được duyệt cho vào tập thơ đầu của tác giả (tập Nằm nghiêng), phải chờ thêm thời gian mới được đưa vào tập thơ sau (tập Rỗng ngực)? Chưa ai, tôi có nhầm chăng, nhìn Huế thành ra một bộ phận thân thể, mà lại là bộ phận nhạy cảm, như nữ thi sĩ này. Giống như dải đất Việt Nam hình chữ S, trong mắt thi sĩ chiến trận Trần Mạnh Hảo là “đất nước hình tia chớp”, trong mắt thi sĩ tình yêu Vi Thùy Linh là “dáng hình người đàn bà khuỵu chân ngửa mặt”, và trong mắt một thi sĩ khác là con đỉa bị cắt ngang bởi con sông vĩ tuyến thành hai nửa ngo nghoe tìm cách dính lại với nhau.

Vậy là ở đây có chuyện cách nhìn, cách cảm. Chuyện phải vượt thoát khỏi những khuôn mòn sáo cũ, những cliché, mà thơ dễ vướng vào do áp lực của truyền thống văn hóa, của đặc điểm một vùng đất. Trung niên thi sĩ Bùi Giáng đã khái quát cái bất biến của cố đô miền Trung: “Dạ thưa xứ Huế bây giờ/ Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương”. Chỉ có người thơ bằng cảm xúc và cái nhìn tươi mới của mình giúp Huế và người yêu Huế phát hiện ra những vẻ đẹp khác lạ đằng sau những cảnh vật di tích đã quen thuộc và mòn trơ. Vâng, đất đá tre gỗ là những thứ trơ. Lâu đài thành quách lăng tẩm là những vật trơ. Nhưng “những lăng tẩm như hoàng hôn níu lại đời quên lãng” (Thu Bồn) thì cái tham vọng của bậc đế vương đã hóa sự ngẫm ngợi phù du kiếp người. Vỹ Dạ thôn, ai cũng biết, trở thành một tâm tưởng cho người đến Huế là nhờ lời thơ của Hàn Mặc Tử. “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” đến bây giờ vẫn là một nghi vấn, một lạ lùng, một khó hiểu, và một thơ, của Huế.
Thơ Huế lẽ nào không Huế?
Không Huế, như Tiếng chuông Thiên Mụ ngân day dứt, khắc khoải, tan hoang trong từng câu thơ Nhã Ca, một người con gái Huế. Trong thơ về Huế tôi ít thấy bài viết về chùa Thiên Mụ, mà viết như Nhã Ca thế này tôi lại thấy càng ít. Huế, với Nhã Ca, đã là một niềm nhớ, niềm đau.
Không Huế, như Cao Thoại Châu “trong khai sinh anh người hà nội” nhưng “theo em về huế” (1969) “bởi thương em nên phải về xứ nóng / xứ mưa dầm và cung cách trang nghiêm”, và:
bởi thương em nên phải vào thành nội
ngồi trên chỗ vua ngồi ngày xưa
đó là phút giây thành ngài ngự
và ngài ngự thân cô thế cô
trong một cõi cô đơn rất rộng
và ngài ngự đang giấu nỗi buồn
trong một chốn tù riêng của huế
ngài ngự muốn tập quen đứng đắn
tập sống bình thường cho bớt đau thương
Vẫn nói chuyện “làm vua” trong thành nội, nhưng mấy câu thơ sau đây của Cao Thoại Châu tôi muốn tách riêng ra như để nói riêng cho người làm thơ về Huế:
ngồi trên ngai vàng anh bắt đầu tập nói
những tiếng ni tiếng nớ lạ đời
như trẻ thơ đang ngồi trong nôi
tập nghe ngóng và gọi tên sự vật

Đập vỡ cái mặc định về Huế để tìm ra một Huế mới của hôm nay chứ không phải hôm qua, đó là trách nhiệm của thơ Huế hiểu theo nghĩa khái quát và bao trùm.
Thơ Huế lẽ nào không Huế, ở đây có một chấm than và một chấm hỏi.
Chấm than: Thơ Huế lẽ nào không mang nét Huế! - chuyện đó hiển nhiên.
Chấm hỏi: Thơ Huế lẽ nào không viết khác được về Huế khi Huế đã thành một đề tài yêu mến của nhiều thi nhân nước Việt có tài? Huế thơ vẫn còn đang chờ được đánh thức ở những bề sâu khác lạ của mình, giống như Huế di sản vật thể đang cố làm sống lại mình trong những phương diện khác lạ qua mỗi kỳ festival.
Hà Nội cuối tháng 5/2006
Huế đầu tháng 6/2006
     P.X.N

(nguồn: TCSH số 209 - 07 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.

  • THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.

  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.

  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".