Thơ đổi mới, một khởi đầu mới

16:10 28/08/2009
INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?

Nhà thơ Inrasara - Ảnh: thethaovanhoa.vn

Đổi mới, không thể viết như cũ, họ biết thế. Nhưng bắt đầu từ đâu? Họ chưa cơ hội nhận được thông tin đa chiều hay tiếp nhận nền thơ ca thế giới với bao nhiêu trào lưu như thứ cửa hàng bách hóa tổng hợp để tha hồ chọn lựa, như thế hệ thơ hậu đổi mới. Mở cửa, họ đối mặt với khoảng trắng mênh mông của sáng tạo, của ý thức và trách nhiệm của một nghệ sĩ tự do. Họ cần làm mới, nhận thức rằng mình phải khác. Phải gánh lấy trách nhiệm định phận thi sĩ của thế hệ, của thời đại.
Nhưng mới, khác thế nào?

2. “Giai đoạn này,
ở các tỉnh phía Bắc, các nhà thơ trong nhóm Nhân văn - Giai phẩm lần lượt xuất hiện trở lại, gây được không khí cởi mở trên thi đàn, qua đó tạo ảnh hưởng không nhỏ đến các sáng tác trẻ. Dương Tường - Lê Đạt ra mắt trong tập 36 bài tình (1989), Hoàng Hưng in Người đi tìm mặt (1993) sau Ngựa biển (1988) 5 năm, Bến lạ của Đặng Đình Hưng được xuất bản năm 1991, Lê Đạt sau Bóng chữ (1994) là Ngó lời (1997), Trần Dần xuất hiện qua Cổng tỉnh (1994),...

TP Hồ Chí Minh, tuyển tập thơ và tiểu luận Gieo & Mở (1995-1996) ra hai tập rồi ngưng. Sau đó, Thơ Tự do gồm mười tác giả khuynh hưng cách tân in chung (1999) tiếp bước, rồi Tuyển tập Văn chương, ra mắt số đầu tiên vào năm 1999. Tất cả như đang dọ dẫm tìm cách bứt phá, cả trong lối viết lẫn cách xuất hiện” (Xem thêm: Inrasara, “Thơ Việt, từ hiện đại đến hậu hiện đại, Tienve.org Inrasara.com, 2-2009).
Thế hệ thơ chống Mỹ, với những thành tựu trong giai đoạn đất nước chiến tranh, và cả mươi năm sau đó qua các sáng tác sử thi và âm hưởng sử thi phát triển mạnh mẽ, coi như đã kết toán phần việc một thời đại. Ít ra là với thơ ca, dù vài người của thế hệ đó vẫn còn viết, còn vắt mình đóng góp.

Ngoại trừ một vài người. Nguyễn Duy là một.
Mở cửa, Nguyễn Duy cho ra đời hàng loạt sáng tác đầy phản tỉnh. Trước anh, Chế Lan Viên với những “Ai? Tôi!”, những “Bánh vẽ”,... dằn vặt nhìn lại mình và thế hệ mình. Cái nhìn dằn vặt, chua xót, và nhiều ân hận của kẻ sắp vĩnh viễn rời cuộc chơi. Cuộc chơi ông hết cơ hội cữu vãn. Nguyễn Duy thì khác, anh đang ở tuổi đứng bóng mặt trời của sáng tạo. Nhìn - như con người nhập cuộc. Đây là nhà thơ ý thức phản tỉnh self consciousness sớm, sâu và lâu dài nhất, chắc chắc thế. Tự thức từ Đánh thức tiềm lực (1987):
ta ca hát quá nhiều về tiềm lực
tiềm lực còn ngủ yên...
cho đến Nhìn từ xa... Tổ quốc (NXB Trẻ TP Hồ Chí Minh, 1989):
Có một thời ta mê hát đồng ca
chân thành và say đắm
ta là ta mà ta cứ mê ta
...Vâng - một thời không thể nào phủ nhận
tất cả trôi xuôi - cấm lội ngược giòng

Cho đến tận năm 1992, khi anh cho in bài thơ dài Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ trên Tạp chí Cửa Việt. Rồi tuyên bố nghỉ làm thơ! Bởi không còn có thể làm thơ, trong khí hậu thơ đầy giả tạo. “Ai” và dấu “?” liên tục được đặt ra suốt Nhìn từ xa... Tổ quốc. Về vô số câu hỏi đặt ra với lương tri thi sĩ trước các vấn đề xã hội. Quá khứ, hiện tại và tương lai. Và lạ là, “Không ai” trả lời. Không muốn trả lời, không thể trả lời và không dám trả lời. Trả lời sao được, khi ta đang nhất tề hành động thật thà giả và kỉ cương giả, linh thiêng và từ bi giả, cần cù và thông minh giả, bao dung và nhân tình giả,… Đặt bao “vấn đề” xã hội, nhà thơ buộc phải đặt vấn đề về chính công việc của mình: viết thơ.
ta chúi mũi hà hơi lên trang bản thảo
hô hấp nhân tạo những con chữ khó thở
...ta khao khát tiếng hát giun dế
không biên tập không kiểm duyệt
Nguyễn Duy qua ý thức phản tỉnh xã hội và suy tư về thơ, cũng đã
[vô tình] dự cuộc làm mới thơ Việt đương đại. Ta thấy Nguyễn Duy không ngán ngại ngôn từ thông tục, đời thường:
thần tượng giả xèo xèo phi hành mỡ
ợ lên thum thủm cả tim gan
Là một cách tiếp hơi cho thế hệ đổi mới và cả hậu đổi mới.

3. Nhưng như thế vẫn là chưa đủ. Thế hệ thơ đổi mới vẫn cứ là một thế hệ thơ hẫng! Họ bơi vô căn trong nỗ lực tìm đường, đối mặt với nỗi cô đơn cùng tận trước trang giấy trắng. Chấp nhận và chịu đựng. Một sức ép đè nặng lên họ; một nỗ lực và chịu đựng ghê gớm, gần như bất khả vượt. Trên bước đường, ngoảnh lại, có không ít nhà thơ tài năng bỏ cuộc. Có kẻ về hưu non, số còn lại chạy náu thân chốn báo chí hoặc cứ viết tới, như thể “thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng”.

Nhưng giữa khí quyển văn chương đó, số ít đã đứng vững. Tiếp tục chiến đấu và sáng tạo. Trong cô độc, bất trắc. Cô độc, họ bị cắt đứt với khí quyển văn chương của một tập thể ít nhiều nhất quán trong ý hướng sáng tạo; cô độc, họ ít quen biết nhau để có thể lập nhóm, mở trường phái; cô độc, họ không được “đàn anh” chỉ bảo hay đưa tay dẫn dắt, như không ít nhà thơ thế hệ trước đó; cô độc, họ càng không nhận được những tài trợ tư nhân như vài khuôn mặt thế hệ sau này. Cùng lắm có vài ưu ái mơ hồ nào đó. Bất trắc, bởi thiếu “định hướng”, họ bước đi đầy rủi ro, sa sẩy. Đại biểu của nỗi rủi ro và sa sẩy đó là Mai Văn Phấn, có lẽ.

Các bài thơ “truyền thống”, những Giọt nắng (1992), Gọi xanh (1995),… với bao giải thưởng, liên tục từ năm 1991 đến 1995, dễ đẩy anh té ngồi lên chiếu văn đầy trang trọng. Nhưng không! Nhìn lùi lại, Mai Văn Phấn vỡ ra rằng có thiếu khuyết nào đó trong thơ anh. Chúng vẫn chưa nói được tiếng nói của hôm nay. Anh quyết rời bỏ chúng, lên đường tìm giọng điệu khác của anh, của chính thế hệ anh.
Đó là thái độ dũng cảm của kẻ sáng tạo, - một thế hệ sáng tạo. Dũng cảm, bao nhiêu tác phẩm thơ được cho ra đời, sau tháng ngày hoài thai và nung nấu. Với bao nhiêu tên tuổi: Dư Thị Hoàn, Nguyễn Quang Thiều, Dương Kiều Minh, Mai Văn Phấn, Trần Anh Thái, Trần Tiến Dũng, Đặng Huy Giang, Trần Quang Quý, Nguyễn Bình Phương.

4. Họ đều khá trẻ. Người nhiều tuổi nhất là Dư Thị Hoàn (1947), ít tuổi nhất: Nguyễn Bình Phương (1965), còn lại đa phần sinh vào khoảng 1955-1960. Họ xuất hiện trên thi đàn ngay thời đầu đổi mới. Tác phẩm đầu tay gây ấn tượng của họ ra mắt độc giả trong thời đoạn này.
Khởi đầu bằng Lối nhỏ của Dư Thị Hoàn in năm 1988, một năm sau Củi lửa của Dương Kiều Minh ra đời, tiếp theo là Sự mất ngủ của lửa của Nguyễn Quang Thiều (1992), rồi Trần Anh Thái cho in Độc thoại trắng hai năm sau đó (1994). Xuất hiện muộn nhất là Trần Tiến Dũng với Khối động (1997). Tất cả đều tạo dấu ấn, đều gây sự chú ý đáng kể, như vài hòn sỏi mới, khác lạ được ném vang vào hồ nước lăn tăn sóng.

Như thể vài dọ dẫm dè dặt bước ra khỏi cánh đồng thơ ca phong nhiêu nhưng phẳng lặng. Rồi đột ngột, khi thế kỉ XX sắp kết thúc và thiên niên kỉ mới bắt đầu, thế hệ đổi mới cho ra mắt hàng loạt tác phẩm quan trọng nhất của mình, cấp tập, tự tin và dũng mãnh.
Đó là thế hệ thơ thôi còn ám ảnh bởi quá khứ cuộc chiến thống nhất đất nước vừa qua. Quá khứ ấy trở lại, nếu có, là để được soi rọi qua một lăng kính khác, được nhìn theo các chiều hướng khác.
Trần Anh Thái, người trong cuộc, có cái nhìn vừa cận cảnh vừa toàn diện. Từ Đổ bóng xuống mặt trời (1999) sang Trên đường (2004) và mới nhất: Ngày đang mở sáng (2007).
Màn đêm lặng phắc bãi chiến trường
...Xác quân thù xác bạn gục vào nhau
                                                (Trần Anh Thái. Ngày đang mở sáng, 2007)

Khác, không phải là sự đánh đồng địch/ ta, kẻ thù/ đồng đội mà là điều gì cao vời hơn, thăm thẳm hơn: sự ưu tư về định mệnh dân tộc, khác đi - suy tư về nguồn cội. Về Quê hương, về cái Nhà - như là nơi cư trú của Tính thể con người trên mặt đất. Cảm nhận cuộc chiến theo chiều hướng đó, Trần Anh Thái từ chối kể chuyện theo trật tự thời gian, rù rì thứ lớp với chủ âm là các biến cố lịch sử trọng đại mà là những gì tưởng như vặt vãnh không đáng ghi vào sử sách được sàng lọc qua kí ức phong nhiêu, đời thường và rất con người về cuộc chiến. Chúng có mặt đầy tượng trưng, đánh động tâm thức người đọc, cho dù đấy là kẻ đã hay chưa từng dự phần vào nó, chịu đựng nó. Đây là trường ca đầy chất suy tưởng mang tính phản tỉnh của tác giả, khác nhiều so với không khí sử thi Việt, giai đoạn qua.

Đó là một cách đặt lại câu hỏi về quá khứ để khép lại quá khứ. Quá khứ như “người chị về núp bóng nâu sồng/ Rung lên những quả chuông hoàng hôn” (Mai Văn Phấn). Quả chuông hoàng hôn khép lại mãi mãi một giai đoạn lịch sử, mời gọi thế hệ hậu chiến - thế hệ đổi mới, đúng hơn - hướng đến chân trời mới, chinh phục các mục tiêu khác. Chiến tranh kết thúc, tâm thức tập thể của thời chiến tranh kết thúc đã đành; ngay ý thức tập thể của thời bao cấp, của hợp tác hóa nông nghiệp với bao sai lầm cũng phải được cởi bỏ sau lưng.
Chân tay ta vừa rút ra khỏi huyễn hoặc giấc mơ, ngón còn tê cứng một đời cuốc cày liềm hái, một đời bàn tay phải lệ thuộc vào tay trái. Cả hai bàn tay lệ thuộc vào nỗi ú ớ toát mồ hôi của cái chết lâm sàng, chỉ biết cứng đơ mặc cho cơn bóng đè trùm lợp. Giờ những bàn tay đã tự do thức dậy, biết cộng lực cho nhau khi bình minh đang đến tái sinh...
                         (Mai Văn Phấn, Người cùng thời, 1999)

5. Khép lại cách cửa quá khứ, công việc đầu tiên của họ là tái khám phá hiện thực, một hiện thực bị đánh mất trong chiến tranh hay trầm tích nơi những vùng đất lâu nay im ngủ. Chiến tranh, giá trị và ý nghĩa của đất được đo bằng sự được/ mất, sự hi sinh và lượng đổ đi của máu; sản xuất, đất là tấc đất tấc vàng, là đổ mồ môi sôi nước mắt. Khi bao trận vào sinh ra tử cho đất đã qua, mấy cày sâu cuốc bẫm tất bật đã lắng lại, đứa con của Đất nhìn và hiểu đất bằng/ qua tâm thức khác. Nhà thơ như là kẻ trầm tư đánh thức nó dậy. Sông Đáy trong khí mạch đất Hà Tây văn vật vang vọng suốt sáng tác của Nguyễn Quang Thiều là một. Anh khai quật và tìm thấy những báu vật bị bỏ quên hay còn ẩn giấu, ở các tầng sâu thẳm, sâu thẳm hơn nữa. Anh nhìn thấy những gì người khác không nhìn thấy hoặc, nhìn thấy khác người khác. “Những người đàn bà gánh nước sông”, những “con chó canh giữ nỗi buồn”,...

Khởi xướng từ xứ sở bóng tối đang lan tỏa, những tiếng không phải tiếng
Rồi những tiếng ngập ngừng, rồi thanh thoát, và dâng khắp, vang vang
Hiện lên những gương mặt bị chia sẻ và lắp ghép
Tóc tìm tóc, tai tìm tai, mắt tìm mắt, và máu tìm lại máu
Những ống họng bị cắt đứt lần tìm và tự hồi sức
Và chảy trong thức tỉnh lần mò, và chảy trong mê man lộng lẫy
                        (Nguyễn Quang Thiều, Nhịp điệu châu thổ mới, 1997)

Hiện thực xa có thể là những mảnh vụn của một nền văn minh đang ngủ vùi giấc ngàn thu như văn minh Champa, được Inrasara phục dựng và làm sống dậy. Sống dậy và hòa nhập dòng chảy chung của dân tộc, của nhân loại. Hiện thực cũng có thể là hiện thực gần của cuộc sống thành phố sôi động bề bộn hay bế tắc trước và sau mở cửa lộ diện trong các sáng tác của Trần Tiến Dũng. Một hiện thực nẩy sinh từ va chạm của các thế hệ, các quan niệm sống khác nhau, của các nền văn hóa khác nhau. Sự va chạm sinh ra hệ lụy có khi rất vi tế và cá biệt nhưng mang sức bung phá dữ dội, sẵn sàng làm sụp đổ một ý thức hệ. Lắm lúc nó mang tính khái quát lớn, có tác động rộng lớn trong cộng đồng. Nơi đó, sự tha hóa của con người là một. Nếu “Người đi tìm mặt” của Hoàng Hưng đẫm chất hiện sinh, thì đến Trần Quang Quý, “mặt” người đã khác, rất khác. Chúng biến chất và biến thiên đa dạng, trơn trợt khó nắm bắt. Chúng làm nhạt nhòe cá tính và nhạt nhẽo, vô vị hóa cuộc đời.

Những cái mặt di cư trong nhau
đến nỗi quên lối về
mặt thật!

Phải sắm nhiều vai kịch trong mỗi đời mặt
góc diễn tấu vỉa hè hay trang trọng sân khấu thời cuộc
một ánh chớp
một liu tiu cỏ biếc
mỗi mắt người một ngọn đèn soi

Những đau đáu buồn, khuôn mặt nặn nhào, khuôn mặt nhẵn quen
những cái mặt ẩn dụ xu nịnh
và thương thay những mặt mượn men
cả những mặt đã lạc màu chính khách

Tôi gặp đó đây nhan nhản vô cảm
có khuôn mặt một đời biểu diễn
có khuôn mặt đau nỗi đau không mặt
bóng thời gian làm xiếc phận người
                                    (Trần Quang Quý, Siêu thị mặt, 2006)

Một cuộc sống trong đó con người biểu diễn hay làm xiếc phận người với “vô cảm tiếng cười vô cảm ánh nhìn nhau” (Trần Anh Thái). Đó có thể là hệ quả của hậu chiến, con người lâu nay quen đồng bộ, đồng bộ ở cách nghĩ, cách viết và phần nào đó cách sống, nay khi đột ngột bị đẩy vào tình thế buộc nhìn lại mặt mình: ta thấy mình không giống ai. Đúng hơn - giống tất cả mọi người mà không nét nào là của mình. Muốn tìm lại mặt mình, cũng không biết tìm ở đâu. Chúng ta chưa chuẩn bị gì cả! “Cuộc sống của tôi là sống giữa tầng tầng thế giới mặt” (Trần Quang Quý).

(còn nữa)
I.R.S.R
(245/07-09)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN TRỌNG TẠO(Nhân đọc một bài viết của Lê Quý Kỳ)

  • HÀ VĂN LƯỠNG 1. Trên hành trình của văn học Việt Nam hiện đại mà nói rộng ra là văn học Việt Nam thế kỉ XX, bên cạnh việc phát huy và giữ gìn bản sắc và những truyền thống văn hóa dân tộc thì nhu cầu giao lưu, tiếp thu văn học nước ngoài, đặc biệt là văn học phương Tây để góp phần hiện đại hóa nền văn học dân tộc trở thành một nhu cầu cần thiết.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHVấn đề bản sắc địa phương trên tạp chí văn nghệ tỉnh nhà chúng ta đã có dịp bàn bạc, trao đổi nhưng chưa ngã ngũ. Có lẽ trong trường lực báo chí, tờ văn nghệ vẫn là chỗ nhạy cảm nhất về phương diện văn hóa. Hẳn nhiên, trong địa hạt ấy, tờ văn nghệ cũng là nơi khả kiến nhất về phương diện nghệ thuật. Câu hỏi đặt ra ở đây là bản sắc địa phương của tờ báo được xét theo phương diện nào? văn hóa hay nghệ thuật?

  • THANH THẢOCâu trả lời có vẻ đơn giản: văn học là... văn học. Nhưng trả lời như thế chính là đặt tiếp một câu hỏi, và lại một câu hỏi nữa, mà câu trả lời đâu như còn thấp thoáng ở phía trước.

  • TRẦN THỊ THANHĐặng Huy Trứ là một trong những gương mặt nổi trội của các nhà trí thức lớn Việt Nam ở thế kỉ XIX. Tài năng và trí tuệ tuyệt vời đã hội tụ trong con người ông.

  • NGUYỄN XUÂN HÒA Ưng Bình Thúc Giạ thị (1877 -1961) và Thảo Am Nguyễn Khoa Vi (1881 - 1968) là hai nhà thơ Huế giàu tài năng sáng tác vừa có mặt chung, mặt riêng, phản ảnh cuộc sống xứ Huế được nhân dân mến mộ, khâm phục.

  • ĐỖ ĐỨC HIỂU* Thưa ông, qua hai tác phẩm gần đây nhất của ông, tôi được biết ông quan tâm nhiều đến vấn đề Phê bình Văn học ở nước ta. Theo ý ông, Phê bình, Nghiên cứu Văn học ở Việt Nam những năm gần đây có biến đổi gì không? Hay nó dậm chân tại chỗ như một vài người đã nói?

  • PHONG LÊIĐến với tôi một nhận xét: Đại hội nhà văn lần thứ VI, tháng 4- 2000, do việc bầu đại biểu từ 8 khu vực, nên vắng hẳn đi những người có thâm niên nghề nghiệp cao. Đặc biệt là những vị có sự nghiệp đáng trọng trên các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, những người có vị thế bậc thầy trên nhiều phương diện của kiến thức đối với các thế hệ viết trẻ.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Tiếp theo Sông Hương số 253 tháng 3/2010)

  • HỒ THẾ HÀNhìn vào tiến tình văn học đương đại Việt Nam, căn cứ vào các giải thưởng văn học, các hiện tượng văn chương nổi bật trong hơn hai thập kỷ qua, - so trong tương quan các thể loại, nhiều người không khỏi lo lắng và lên tiếng báo động về sự xuống cấp của thơ.

  • TRẦN THIỆN KHANHSau chiến tranh khoảng 10 năm, đất nước có nhiều chuyển biến quan trọng. Các nhà văn đủ mọi thế hệ nghĩ và viết trong một bối cảnh mới. Song họ vẫn chưa thoát khỏi những yêu cầu của đoàn thể, họ vẫn phải phục vụ một “biểu tượng xã hội về chân lí”(1) cái biểu tượng có tính giai cấp, tính chiến đấu, hoặc ít ra cũng có tính nhân dân và màu sắc dân tộc đậm đà đính kèm.

  • BỬU NAMThiên nhiên là “không gian sống” và “không gian tâm tưởng” của con người và thi sĩ phương Đông, nó đã lắng sâu trong vô thức của họ và đã trở thành một loại “không gian văn hóa” và là một hằng số quan trọng trong thơ ca phương Đông.

  • THANH THẢOMỗi nhà văn đích thực đều là mỗi nhà không tưởng ở những mức độ khác nhau. Tônxtôi là nhà văn vĩ đại, đồng thời là nhà không tưởng vĩ đại.

  • THU TRANG (Paris) Có thể từ đầu thế kỷ, do hoàn cảnh lịch sử, người Việt Nam đã tiếp cận văn hóa Pháp. Chúng ta phải công nhận phần ảnh hưởng phong phú do các luồng tư tưởng, quan niệm Tây phương đã tác động đến giới trí thưc và văn nghệ sĩ nhiều ngành.

  • NGUYỄN THẾ - PHAN ANH DŨNGCầm trên tay cuốn Truyện Kiều tập chú (TKTC), NXB Đà Nẵng, 1999, dày hơn 1000 trang của các tác giả Trần Văn Chánh, Trần Phước Thuận, Phạm Văn Hòa, chúng tôi thấy đây là một công trình nghiên cứu công phu, tập hợp và chọn lọc được một số chú giải của các học giả nổi tiếng.

  • FRANCOIS JULLIEN (Trích dịch ch. IV cuốn Đối thoại của Mạnh Tử với một triết gia Khai sáng)

  • HOÀNG NGỌC HIẾNTôi hào hứng đi vào đề tài này sau khi đọc bài tiểu luận của Tỳ kheo Giới Đức “Phật giáo có thể đóng góp gì cho minh triết Việt?”(1)

  • ĐÔNG LACon đường đến thành công thường rất khó khăn, với Nguyễn Quang Thiều ngược lại, dường như anh đã đạt được khá dễ dàng kết quả ở hầu hết các lĩnh vực sáng tạo văn chương.

  • TRẦN HUYỀN SÂMMỗi thời đại đều mang lại một quan niệm văn chương khác nhau. Đối với cha ông xưa, họ không hề có ý định lập ngôn, lại càng không chủ trương xây dựng cho mình một học thuyết có tính hệ thống.

  • CAO HUY HÙNGChủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam mà cả bạn bè trên khắp thế giới đều giành tình cảm trân trọng đặc biệt đối với Người. J.Stésron là nhà sử học người Mỹ một trong số những người đã dày công tìm hiểu về Chủ tịch Hồ Chí Minh.