Thơ đổi mới, một khởi đầu mới (tt)

15:59 04/09/2009
INRASARA (Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009)

Nhà thơ Inrasara - Ảnh: thethaovanhoa.vn



6.
Tiếng thơ đổi mới tái khám phá cá nhân và là tiếng thơ kêu đòi tự do cho cá thể bị đánh cắp. “Một cuộc đời không là gì cả, một cuộc đời là tất cả” (Albert Camus). Mặt người bị đánh cắp. “Phó thường dân” hay “công dân hạng hai”,… là các hạn từ được đẻ ra để chỉ những sinh phận bị gạt ra ngoài lề. Ở đó phận người nữ cũng trở thành giới tính hạng hai le deuxième sexe, như lối nói của Simone de Beauvoir. Nhà thơ đổi mới nhìn thấy nó và họ quyết định đặt lại vấn đề lâu nay xã hội mặc nhiên xem như không là vấn đề. Từ Lối nhỏ bước sang những Bài mẫu giáo sáng thế (1993), Dư Thị Hoàn là nhà thơ đầu tiên kêu lên tiếng kêu bức bối, tù túng của người nữ trong nỗi quẫn bách của định phận. Một tiếng kêu đòi giải phóng tình dục, lớn hơn - giải phóng thân phận. Tiếng kêu nhỏ, sắc, đầy âm vang.
                       
                        Cô giáo sĩ truyền đạo đang nhẩy múa
                        Đám tín đồ hài nhi theo nhịp bi bô
                        Lời đọc kinh loang như lá cỏ
                        Bay xa hơn tiếng chuông nhà thờ
                        Em có...
                        Em có đôi bàn tay...
                        Em có đôi bàn tay trắng tinh...
 
                        Cầu nguyện cho bàn tay đừng ám muội
                        Cầu nguyện cho bàn tay đừng lầm lỗi...
                             (Dư Thị Hoàn, Bài mẫu giáo sáng thế, 1993)

Âm vang dội vào miền Nam, Thảo Phương đã có lời đáp vọng lại:
                        Rừng
                        Và núi
                        Và bầu trời
                        Đầy âu lo
                        Trái tim ta chợt rời thành phố

                        Ta lần về dòng suối hoang sơ
                        Đầm mình giữa bầy hà mã hóa đá

                        Những thiếu nữ mơn mởn ngó sen
                        Tung lên trời những chuỗi cười như ngọc
                        Đây là nước hay thời gian róc rách?
                        Vỗ về con hà mã lạc bầy…
                        Nơi đây sau tiếng ngáp dài khoái cảm
                        Không có căn hộ hình hộp với ô cửa rộng
                        Đã vạn năm
                        Ta - con hà mã thức giữa bầy…
                        (Thảo Phương, Thơ Việt Nam thế kỷ XX - Thơ trữ tình, 2004).

Con hà mã thức giữa bầy biểu hiện sự cô đơn và kiêu hãnh, nỗi khát khao tự do vượt thoát khỏi không gian chật hẹp, tù túng. Dư Thị Hoàn và Thảo Phương là hai khuôn mặt tiêu biểu khởi động dòng thơ nữ quyền luận nở rộ sau này.

7. Nhưng giọng chủ lưu của thơ đổi mới là giọng đòi vượt thoát khỏi thân phận của mặc cảm tòng thuộc - như đứa con lâu nay phụ thuộc vào bầu vú, hay xa hơn, vào cuống rốn bà mẹ - bước ra khỏi nỗi bao che yên ấm để tự khẳng định trước thế giới bao la. “Bất chấp rủi ro rình rập, những cánh diều vẫn vút lên thăm thẳm bầu trời”. Dương Kiều Minh nói thế.
                        Ta - cư dân nỗi đau
                        Ta - cư dân miền khát vọng...
                        Hiến thân ta - cuộc thử nghiệm này
                        Kí thác đời ta - bản giao hưởng này
                        Bản hòa âm kẻ khốn cùng
                        Kẻ quỷ ám
                        Kẻ đêm đêm ngước bầu trời yên tĩnh
                        Hú gọi yêu thương về với con người.
                         (Dương Kiều Minh, Những thời đại thanh xuân, 1991)

Hú, hét, réo gào,… kêu gọi con người quay lại với bản thể con người. Khẳng định và dự cảm. Nó dự cảm về một tương lai sáng nhưng đầy bất trắc. Sự dự cảm có mặt tràn khắp trang thơ thế hệ đổi mới. Nguyễn Quang Thiều dự báo về những tai họa thiên nhiên trước sự vô tâm của con người và Nguyễn Quang Thiều dự cảm ánh sáng mới. Dự cảm và hát lên bài ca đầu tiên của ánh sáng tìm thấy đó.
                        Đêm rền vang tiếng thở hơi của những cây kèn
                        Tôi là nhạc công sót lại cuối cùng bước dần ra phía sáng
                        Trong nghi lễ của đất đai, của bầu trời, tôi nâng kèn, ngước mắt
                        Tất cả những cánh đồng loa kèn bùng nổ - Bình Minh.
                                    (Nguyễn Quang Thiều, Bài ca những con chim đêm, 1999)

Mai Văn Phấn có dự cảm khác, thể hiện qua cách nói khác:
                        Vọng trong cơn mơ thành tiếng sét
                        trên giường cũ
                        mặt đất rộng lại về
                        mùi ruộng ải dâng mưa mù mịt
                        quyện vào mồ hôi chiếu chăn…
                        tiếng sét đi không còn vọng
                        thông với vực sâu lối hẹp
                        tiếng kẹt cửa réo vang
                        mở con đường.
                                    (Mai Văn Phấn, Vách nước, 2003).
Con đường tư tưởng và con đường thơ ca.

8. Một thế hệ thơ miệt mài đi tìm khai phá cách biểu hiện mới, thi pháp mới cho thơ.  Mai Văn Phấn, sau trường ca Người cùng thời (1999) nhiều thể nghiệm mới mẻ, đã dấn sâu hơn trên con đường tìm tòi ở tập thơ Vách nước (2003). Có thể nói, hiếm kẻ trên hành trình thơ ca, đã trải nghiệm lắm gập ghềnh, nhọc nhằn như Mai Văn Phấn. Thay đổi, luôn luôn thay đổi. Từ cổ điển sang hậu lãng mạn đến siêu thực hậu kì và cả hậu hiện đại nữa. Khai phá, ngộ nhận hay sa lầy, nhưng anh biết đứng dậy và làm lại. Từ mù mịt cuộc thơ và hun hút của con đường thơ. Âu đó cũng là định mệnh của thơ Việt. Anh buộc phải bước lên con đường đó.
Sau tiếng - kẹt - cửa, Mai Văn Phấn bất chợt bắt gặp hơi thơ - hơi thở của mình. “Biến tấu con quạ” và các bài thơ mới nhất của anh đã đổi giọng toàn triệt. Không mảy may dấu vết cử chỉ và dáng điệu. Nhịp thơ đi nhanh, gấp, dứt khoát. Hơi thơ khoẻ khoắn. Biến tấu giúp nhà thơ quyết toán phận hành khất: anh vừa tìm được bản lai diện mục - thơ của/ cho mình.

Trong lúc đó, Nguyễn Quang Thiều với Bài ca những con chim đêm (1999), tiếp tục mở rộng và làm trương nở tối đa giọng điệu đặc thù. Hiện thực và huyền ảo, trữ tình mới đầy chất trí tuệ. Âm hưởng và sức lan tỏa của nó đến thơ thế hệ sau đó là không chối cãi.

Lặng lẽ hơn, và khác với một Nguyễn Quang Thiều hay Mai Văn Phấn mang màu sắc phương Tây, Dương Kiều Minh tìm hướng đi khác. Phong thái phương Đông bao trùm và trải dài từ Thời đại thanh xuân (1991), qua Ngày xuống núi (1995) sang Tựa cửa (2000). Một phương Đông hiện đại nhưng không thiếu quyết liệt.
Đặng Huy Giang, riêng năm 2000, cho ra mắt liên tục ba tập thơ: Hai bàn tay sao, Qua cửaTrên mặt đất, tiếp đó là Đời sống (2002) vừa trữ tình vừa “nói lí” rất khác người. Trần Quang Quý, sau thành công của Giấc mơ hình chiếc thớt (2003) là Siêu thị mặt (2006) có những ám ảnh khác và giấc mơ khác nữa. Ám ảnh về “Lời”: “Tôi không nói bằng chiếc lưỡi của người khác/ chiếc lưỡi đi qua ngàn cơn bão từ vựng/ chiếc lưỡi trồi sụt trên núi đồi âm thanh, trên thác ghềnh cú pháp/ chiếc lưỡi bị hành hình trong một tuyên ngôn”.

Cùng năm này, Inrasara thể nghiệm tân hình thức qua tập thơ Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức. Đây là dấu mốc ghi nhận sự có mặt đầy “chính thống” của tân hình thức với tư cách một trào lưu văn chương. Trước đó, các tác giả và tác phẩm của trào lưu thơ này như thể đứa con hoang lưu trú bên lề dòng văn chương chủ lưu qua hình thức in photocopy hay đăng trên các Website văn học tiếng Việt mở ra hàng loạt từ trong nước đến hải ngoại.

Ở một chân trời khác, Nguyễn Bình Phương Từ chết sang trời biếc (2001) qua Thơ Nguyễn Bình Phương (2004) vẫn miệt mài với cuộc tìm tòi độc đạo, độc đáo. Anh đưa thơ đi vào cái tinh tế ở chiều sâu, bề sau cuộc sống xô bồ hiện đại. Vẫn ngôn từ chắt lọc ấy, cấu tứ chắc nịch ấy, sức gợi đầy ám ảnh ấy, Nguyễn Bình Phương ngày càng gần đời thực hơn, âm hưởng câu thơ rung động ta ở bề thẳm sâu hơn.
                        Buồn phóng xe áo phông trắng ngang trời
                        Đeo kính khác nhìn sang cuộc đời khác
                        Buồn nghĩ miên man nhưng chẳng bao giờ lạc
                        Một cái tên lanh lảnh giữa trưa hè
                        Buồn có đôi tai thật tinh
                        Bước chân thật nhẹ
                        Ngón thon gầy mát mượt như tơ

                        Nấp trong bóng sách đổ trên ngực hững hờ
                        Buồn tắt công tắc điện
                        Ra đi...
                
                                    (Thơ Nguyễn Bình Phương, 2004)

Nơi phương Nam, thật bất ngờ, sau hai lần dừng lại ngưỡng hậu siêu thực ở Khối động Hiện (2000), năm 2003, Trần Tiến Dũng đột ngột cho in tập thơ Bầu trời lông gà lông vịt tận trên mạng. Là điều mới mẻ. Mới mẻ ở lối xuất bản và quan niệm về xuất bản lẫn cách viết. Thơ anh bề bộn bụi bặm cuộc sống thực Sài Gòn, với sức mang chứa hiện thực và đậm tinh thần phản kháng. Nhịp thơ gẫy gập, gấp gáp hơn. Và nhất là, anh đã biết chối bỏ mọi ẩn dụ bí bức hay nỗi nhàm cũ của hình ảnh và ngôn ngữ thơ như ta từng biết.
            Rốt cuộc
            Người đàn ông luôn bị chính cái đầu mình lừa dối
                        Không gì ngăn cản không gì thôi thúc
                        Người đàn ông bước theo sau dòng chảy cần mẫn thu lượm bóng cái đầu của chính mình và trả lời thay cho cái đầu về những điều chưa bao giờ cái đầu tự hỏi
                        Trong khoảnh khắc ấy.
                                    (Trần Tiến Dũng, Hiện, 2000).

9. Và còn bao nhiêu khuôn mặt khác, bao nhiêu thi phẩm khác với bao thử nghiệm khác nữa?!
Một thế hệ thơ lặng lẽ và bền bỉ, khiêm cung nhưng đầy tự tin trong tìm tòi, thử nghiệm và sáng tạo. Cho dù có thể phần nào đó nó chưa cắt đứt hẳn với hơi thở sử thi từ thế hệ trước, nhưng nó có cái nhìn mới, mềm và đầy chất nhân văn về chiến tranh và phận người trong chiến tranh (Trần Anh Thái); còn lại, tất cả đã biết dấn mình hòa nhập vào cuộc sống thường nhật của những cá thể bé nhỏ trong cộng đồng mênh mông với bao ưu tư vừa vụn vặt vừa phức tạp, vỡ ra bao vong thân mới của con người trong cuộc sống hiện đại (Dư Thị Hoàn, Nguyễn Bình Phương) nên nó có những ưu tư khác, cưu mang niềm tin khác và hi vọng khác (Dương Kiều Minh, Nguyễn Quang Thiều). Một thế hệ dẫu còn giữ mối liên hệ mờ với truyền thống gần, nhưng đã biết dũng mãnh đi tìm thi pháp sáng tạo mới (Nguyễn Quang Thiều), vận dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật mới (Mai Văn Phấn); trong đó có không ít người dấn vào nền mĩ học hãy còn khá xa lạ với văn chương tiếng Việt: tân hình thức và hậu hiện đại (Trần Tiến Dũng, Inrasara).

Một thế hệ thơ thủ đắc tư duy nghệ thuật ở tầm vóc khác.
Thế nhưng, nó vẫn cứ là một thế hệ thơ hẫng! Không phải hẫng ở tài năng mà, ở nối kết “truyền thống và hiện đại”, như lối nói quen thuộc dễ dãi. Hẫng hơn cả là trong tương quan với người đọc. Nếu trước đó, mỗi tập thơ được in gần như trở thành một sự kiện văn học, hay ít ra cũng được báo chí [bao cấp] đặt hàng giới thiệu thì, các tập thơ của thế hệ thơ đổi mới chịu phận hẩm hiu, như là bị bỏ quên. Cũng có giải thưởng, tuổi tên cũng xuất hiện trên mặt báo, nhưng họ không được cơ chế thông tin bao cấp ưu ái, họ càng chưa thể giỏi xoay sở, sành tiếp thị như các nhà thơ thế hệ sau đó.

Một thế hệ không tuyên ngôn. Không [được] tuyên ngôn mang tính vĩ mô như các nhà thơ thế hệ chống Mỹ; tuyên bố ồn ào, tủn mủn đến nhảm nhí như thế hệ thơ sau đó, càng không. Họ truyên ngôn bằng/ qua thơ.
Nguyễn Quang Thiều:
                        Tôi phải chơi thay những nhạc công đã chết
                        Và những cây kèn bị lãng quên trong bóng tối cánh đồng.

Dương Kiều Minh:
                        Mùa vàng, mùa vàng
                        những kí ức không bao giờ nhắc lại
                        những kí ức không bao giờ lặp lại
                        ta còn nguyên hơi thở tự do
                        Mở cửa, thế hệ thơ đổi mới có mặt.
Một thế hệ thơ làm việc và sáng tạo sòng phẳng. Khi - sau tiếng kẹt cửa - một cánh cửa vừa khép lại và cánh cửa mới hé mở ra. Trước sương mù của không gian tự do sáng tạo, họ hoang mang nhưng không sợ hãi, có đôi chút lưỡng lự mà vẫn quyết dấn tới. Họ đã làm nên các tác phẩm trong thời đại họ sống. Và đặt được những viên đá đầu tiên trên con đường cách tân thơ. Hôm nay, cùng với vài khuôn mặt sáng giá của thế hệ trẻ, họ đang sung sức cho những dự án kế tiếp. Không ý nghĩa gì cả, vài nhận định sai lệch đây đó. Họ có đó, đang là tuổi đứng bóng mặt trời của sáng tạo. Ai biết chuyện gì sẽ xảy ra, ngày mai?

I.R.S.R
(246/08-09)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VÕ VĨNH KHUYẾNBa mươi năm, sau khi Bác qua đời (1969 - 1999) có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều chuyên luận và khá nhiều bài viết trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước về thơ, văn của Bác. Quy mô và mức độ có khác nhau. Tuy vậy, vẫn có chỗ chưa được khảo sát một cách đầy đủ, chưa được đầu tư nghiên cứu một cách thỏa đáng. Trong phạm vi, khả năng cá nhân và nội hàm vấn đề, chúng tôi mạnh dạn trình bày một số suy nghĩ về thơ Bác viết cho thiếu nhi.

  • NGÔ TỰ LẬP(Tiếp theo TCSH số 127/9-99)

  • NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.

  • ĐÀO DUY HIỆP    “Hội làng mở giữa mùa thu     Giời cao gió cả giăng như ban ngày”                                            (Nguyễn Bính)

  • YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...

  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.

  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.