Thơ đang đánh mất sự đa dạng

14:30 11/12/2008
INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.

Người ta rất ngại viết tiểu thuyết. Chưa bàn đến chất lượng, ngại: đơn giản bởi vì tiểu thuyết thì... dài. Cần nhiều công sức và thời gian. Thơ- dễ nuốt hơn. Dễ thành... nhà thơ hơn. Hấp dẫn lắm, vậy thôi. Chưa nói việc phân ranh thơ hay với thơ dở, ngay cả thơ với cái giống thơ cũng khó phân biệt. Chỉ qua con mắt của nhà thơ tay nghề cao hay nhà phê bình có khả năng thẩm thơ tinh tế (không ít nhà phê bình đã thất bại trong tiếp nhận cái mới, từ đó sai lạc hay thậm chí phản (chuyển) động trong thẩm định thơ), chúng mới lộ nguyên hình sản phẩm xài rồi.
Một người làm thơ biếng nhác lao động nghệ thuật ưa xài hàng cũ, hàng đã qua tay. Từ đó, họ đẻ ra hàng loạt sản phẩm thơ second hand. Cụ thể hôm nay, “vô thường” là từ của nhà Phật, Phạm Thiên Thư vận dụng vào thơ, Trịnh Công Sơn đưa vào nhạc thì hay, hoặc nếu dở cũng chấp nhận đựơc. Nhưng sau đó đã có quá nhiều kẻ dùng lại khiến nó trở thành nhợt nhạt.

Chuẩn bị cho cách nghĩ mới, khác.
Ngôn ngữ là quy ước chung của xã hội. Từ chối quy ước này, chúng ta không bao giờ hiểu nhau. Trao đổi thường nhật hay làm thơ, ta phải chấp nhận quy ước đó. Thế nhưng, một nhà thơ đẫm chất sáng tạo luôn nỗ lực đặt dấu ấn của mình lên quy ước chung ấy. Để tạo ra cách nghĩ mới, khác.
Lâu nay, chúng ta đồng bộ quan điểm về thơ, đồng bộ lối thưởng thức thơ và đồng bộ cách làm thơ. Chính điều đó gây hại cho thơ. Đâu riêng gì Việt , ngay Mã Lai, nhà thơ Ibrahim than phiềân là “thơ con âm” của ông bị đại đa số người làm thơ đương thời cho là điên, khiến ông không ít khốn khó. Nhưng chính loại thơ đó, 30 năm sau Hội Nhà văn Mã Lai đề cử cho Giải Văn học Đông Nam Á.
Việt lợi thế là đất nước đa ngôn ngữ. Nhưng rất tiếc, chúng ta vẫn chưa xài tới lối nghĩ (qua ngôn ngữ) của thơ ca các dân tộc thiểu số. Theo cách nói hiện nay: chúng ta chưa khai thác đúng mức nguồn tài nguyên hiện có. Học thiên hạ xa xôi, chúng ta lại càng chưa: chương trình đại học hoàn toàn vắng bóng các trào lưu văn học đương đại của thế giới. Người làm thơ chưa được chuẩn bị tư thế làm mới, khác; độc giả của nền thơ đó cũng chưa được trang bị tinh thần và tri thức tối thiểu để đón nhận cái mới, khác. Tình trạng đó, thơ  chúng ta không dậm chân tại chỗ mới là chuyện lạ!

Hi vọng
Marquéz: Trong sáng tạo, khiêm tốn lắm tức là một tật xấu.
Quyết định sự lớn/ bé của nghệ thuật là ở tài năng và sự dấn thân hết mình cho nghệ thuật. Nó lệ thuộc rất ít hoặc không lệ thuộc gì cả vào các chuyện ngoài rìa:
-Giàu/ nghèo: L.Tolstoi có trang trại hàng nghìn mẫu đất với cả trăm nô lệ phục vụ trong khi Balzac và Dostoievski hầu như dành tất cả thời gian để sáng tác trả nợ.
-Thành phố lớn/ tỉnh lẻ: Hãy so sánh W.Saroyan/ W.Faulkner.
-Thành thị/ thôn quê: A.Camus/ Giono.
-Cường quốc/ nước nhược tiểu: Pasternak của nước Nga giàu mạnh và rộng lớn/ Neruda của Chilê nghèo đói và bé nhỏ đều đoạt giải Nobel Văn chương.
-Đi nhiều/ đi ít: Trong lúc Hemingway lang bạt khắp phương trời thì M.Proust đóng khung trong bốn bức tường lâu đài giữa vòng tay chăm sóc của quý bà.
-Học vị cao/ “thất học”: J.P.Sartre giáo sư- tiến sĩ/ M.Gorki chưa một lần biết mùi không khí lớp học.
-Số đông/ số ít: Trong bảng vàng nền văn chương nhân loại thế kỷ XX, với 3 triệu rưỡi dân lại là nước chiếm ngôi đầu (theo Time và Le Figaro Magazine).

Với văn chương thế giới, Việt vẫn bị xem là nền văn chương ngoại vi; với văn học Việt , văn học các dân tộc thiểu số vẫn bị xem là ngoại vi.
Tinh thần hậu hiện đại phá đổ bức vách ngăn văn chương trung tâm/ văn chương ngoại vi. Một nhà thơ dân tộc thiểu số (Chăm chẳng hạn), một nền thơ của khu vực (các tỉnh lẻ chẳng hạn), văn chương của một ngôn ngữ không là của dân tộc số đông (Việt Nam so thế giới chẳng hạn), vẫn đạt được thành tựu oanh liệt nếu, ta không mặc cảm, khiêm cung học tập và, tự tin nhập cuộc.
Đòi hỏi đầu tiên và sau cùng: dám là mình. Thế nhưng rất nhiều khi “mình” ấy chỉ là phái sinh rơi rớt đâu từ thế kỷ trước, qua những trang sách ta đọc, nếp nghĩ đóng khung bởi xã hội, truyền thống văn hoá lâu đời quy định đầu óc và trái tim ta.
Thế là ta cần có bước đột phá mới: dám làm khác mình.
Chỉ khi nào chúng ta dám làm khác mình, chúng ta mới nói đến sáng tạo!
I.R.S.R

(nguồn: TCSH số 209 - 07 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MAI VĂN HOAN

    Ngôn ngữ nói chung và chữ tôi nói riêng, khi bước vào tác phẩm văn học cũng có số phận thăng trầm liên quan mật thiết đến những thăng trầm của lịch sử nước nhà. Tìm hiểu chữ tôi trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam là một đề tài khá lý thú. Ở bài viết này, tôi chỉ đi sâu khảo sát chữ tôi được thiên tài Nguyễn Du sử dụng trong tác phẩm Truyện Kiều.

  • NGÔ MINH

    Bản lĩnh văn hóa là cuốn sách gồm các bài báo và tiểu luận của nhà văn Tô Nhuận Vỹ do Nxb. Tri thức ấn hành năm 2014. Tôi đọc một mạch với sự xúc động và hứng khởi.

  • LÝ HOÀI THU

    Thôn ca (1944) của Đoàn Văn Cừ là bức tranh thơ sống động về con người và cảnh vật của không gian văn hóa Sơn Nam - Bắc Bộ.

  • NGUYỄN ĐỨC DƯƠNG

    Độc giả trẻ thời nay không ít người sẽ hết sức ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng Truyện Kiều, thiên tiểu thuyết bằng thơ dài tới 3.254 câu với cả thảy 22.778 lượt dùng từ, nhưng lại chẳng hề có qua một chữ NẾU nào, tuy rằng nghĩa “ĐIỀU KIỆN” và/hay “GIẢ ĐỊNH”, vốn được diễn đạt bằng NẾU (hoặc các biểu thức ngôn từ tương đương) trong tiếng Việt đương đại là một trong những nghĩa phổ quát (tức mọi thứ tiếng đều có) và ít thấy một thứ tiếng nào lại vắng các phương tiện riêng để biểu thị.

  • ĐINH VĂN TUẤN

    Trong số mấy bài thơ chữ Nôm còn lại của Bà Huyện Thanh Quan, bài thơ “Qua Đèo Ngang” là bài thơ gần đây được tranh luận nhiều nhất về chữ nghĩa, đặc biệt là về từ ngữ “cái gia gia”(1).

  • KHẾ IÊM

    Tựa đề về cái chết của hậu hiện đại không có gì mới vì đã có khá nhiều bài viết bàn về vấn đề này, từ những đầu thập niên 1990. Nhưng bài viết đã phác họa cho chúng ta thấy đời sống văn hóa trong thời đại sau chủ nghĩa hậu hiện đại với sự xuất hiện những phương tiện công nghệ mới. Lạc quan hay bi quan, chúng ta chưa biết, nhưng rõ ràng những hệ tư tưởng cũ đang dần dần bị tàn phai nơi những thế hệ mới.

  • ALAN KIRBY

    LTS: Alan Kirby nói chủ nghĩa hậu hiện đại đã chết và đã được chôn. Tới thế chỗ của nó là một hệ hình mới của thẩm quyền và kiến thức được hình thành dưới áp lực của những công nghệ mới và các lực lượng xã hội đương đại. Tựa đề bài tiểu luận, lần đầu tiên xuất hiện trên tạp chí Philosophy Now (Triết học Bây giờ) ở Anh, số 58, năm 2006, và sau đó được in trong cuốn “Digimodernism: How New Technologies Dismantle the Postmodern and Reconfigure Our Culture”, được Continuum xuất bản vào năm 2009.

  • LÊ QUỐC HIẾU

    Trong các bộ phận của khoa nghiên cứu văn học Việt Nam hiện nay, không thể phủ nhận lý luận, phê bình là lĩnh vực có nhiều thay đổi rõ rệt. Một loạt những công trình nghiên cứu lịch sử lí luận, phê bình văn học “trình làng” trong những năm qua[1], đủ để nhận thấy tham vọng khái quát, đánh giá của các nhà nghiên cứu sau mỗi chặng đường phát triển của văn học.

  • THÁI KIM LAN
    I.
    Bài viết này được mở đầu bằng một trải nghiệm tự thân, từ chỗ đứng của chủ thể thực hành nói ra kinh nghiệm của mình, vì thế có thể gây ấn tượng về tính chủ quan. Sự trách cứ ấy xin nhận lãnh trước, nhưng xin được tạm thời để trong dấu ngoặc.

  • LUÂN NGUYỄN

    Nhất đình sơn vũ luyện hoa khai
                 (Mộ xuân tức sự - Nguyễn Trãi)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    (Trích tham luận tại Hội thảo "Văn học trước yêu cầu đổi mới" tháng 12-1987)

  • BỬU CHỈ

    Đã từ lâu tôi vẫn nghĩ và tin rằng: quê hương của nghệ thuật là Tự Do, và nghệ thuật đích thực phải thoát thai từ những con người sáng tạo có đầy đủ quyền làm người, cùng tinh thần trách nhiệm đối với cộng đồng xã hội của họ; và lớn hơn nữa là đối với con người.

  • LÊ QUANG THÁI

    Năm Quý Tỵ đã trôi qua, Xuân Giáp Ngọ đã về:
    Rắn trườn đã hết năm,/ Ngựa hay đưa Xuân về.(1)

  • ĐỖ LAI THÚY

    Kìa ai chín suối xương không nát
    Ắt hẳn nghìn thu tiếng vẫn còn
                   
    (Nguyễn Khuyến)

  • TRẦN HUYỀN TRÂN

    Có lẽ, Cám dỗ cuối cùng của Chúa là cuốn tiểu thuyết nói về khoái lạc trần tục của Jesus một cách táo bạo nhất?

  • NGUYỄN DƯ

    Hôm ấy bạn bè họp mặt ăn uống. Chuyện nổ như bắp rang. Tôi khoe mình đã từng ba lần đội trời đạp đất trên đỉnh đèo Hải Vân. Một bạn hỏi đèo Hải Vân có gì đặc biệt? Câu hỏi bất ngờ làm tôi cụt hứng. Ừ nhỉ… đèo Hải Vân có gì đặc biệt?

  • PHAN TUẤN ANH

    “Lịch sử như là đem lại ý nghĩa cho cái vô nghĩa”
                                                               (T.Lessing)

  • Ngày nay, nhìn lại chủ trương cách mạng của Phan Châu Trinh cách đây hơn một thế kỷ, một lần nữa chúng ta lại thấy tầm nhìn của một người mang khát vọng Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh.

  • NGUYỄN THỊ TỊNH THY

    Sau khi đọc bài trao đổi của Triệu Sơn trên tạp chí Sông Hương số 10/2013 về bài viết của tôi trên tạp chí Sông Hương số 8/2013, tôi xin có mấy ý trả lời như sau: