Thiếu “thầy” và “thợ” trong bảo tồn di sản

09:40 20/03/2020

Việt Nam có một khối lượng đồ sộ các di sản đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, công tác quản lý di sản ở Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập. 

Đình Chu Quyến - một trong số ít các công trình được đầu tư tu bổ bài bản, giữ được giá trị của di sản

Việc quản lý chủ yếu là theo ngành dọc của các bộ, ngành, cơ quan chủ quản mà chưa có sự tham gia của các ngành, lĩnh vực liên quan. Điều này dẫn đến một số hệ quả như quản lý di sản thiếu tính bền vững, xung đột giữa bảo tồn di sản và tăng trưởng kinh tế… 

Thiếu chuyên nghiệp và chắp vá

Những bài học lớn từ việc quản lý di sản, như công trình kiến trúc khổng lồ trái phép ở lõi di sản Tràng An (Ninh Bình) hay khoan đục để treo bảng tại tháp Chăm cổ ở Bình Định…, vẫn còn rất tươi mới. Các sai sót trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể có nhiều nguyên nhân; trong đó có sự thiếu hụt về nhân lực của ngành di sản. 

Bà Lê Thị Thu Hiền, Cục trưởng Cục Di sản văn hóa Bộ VH-TT-DL nhìn nhận, trên thực tế, nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực di sản văn hóa còn mỏng, năng lực quản lý và chuyên môn còn nhiều hạn chế; các dự án như thống kê, bảo tồn, phát huy giá trị của di tích vẫn chưa được xây dựng, triển khai kịp thời.

Việc thiếu cả “thầy” lẫn “thợ” trong ngành bảo tồn di sản có thể thấy rõ nhất trong công tác trùng tu và tôn tạo di tích. GS-TS Lưu Trần Tiêu, Chủ tịch Hội Di sản văn hóa Việt Nam chia sẻ: “Nguồn nhân lực trong hoạt động bảo tồn di tích của nước ta phần lớn không được đào tạo chuyên sâu về bảo tồn, hệ quả là có nhận thức khác nhau về những nguyên tắc và quan điểm bảo tồn di tích”. 

Tình hình thực tế của lực lượng bảo tồn di tích hiện nay là tính chuyên nghiệp chưa cao, lực lượng phân tán. Người được đào tạo không được tham gia dự án bảo tồn di tích; đa số các cán bộ quản lý di tích địa phương đều là kiêm nhiệm, không được bổ túc kiến thức chuyên sâu về bảo tồn. Do vậy, nhiều hành vi xâm phạm di tích không được ngăn chặn kịp thời, các quyết định phạt hành chính, thậm chí kỷ luật cán bộ cũng không thể cứu vãn.

Song, không chỉ với di sản vật thể mà ngay với di sản phi vật thể thì sự am tường về chuyên môn cũng là yếu tố sống còn góp phần nuôi dưỡng tinh hoa văn hóa trong cộng đồng. GS Trần Lâm Biền nhiều lần trăn trở khi nhấn mạnh rằng, chưa khi nào yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực cho việc bảo tồn di sản nói chung và trùng tu di tích nói riêng quan trọng, cấp thiết như thời điểm này. Ông còn chỉ ra những phương án về lâu dài cần phải tính đến là đào tạo đội ngũ “thầy” giỏi. Chỉ có thầy giỏi thì mới có thể xây dựng được đội ngũ thi công - đối tượng trực tiếp chạm vào “cơ thể” di tích, tâm huyết và có tài.

Di sản cần phải hòa nhập 

Sau một thời gian dài xây dựng đề án, từ năm 2020, chương trình đào tạo thạc sĩ di sản - Đại học Quốc gia Hà Nội bắt đầu tuyển sinh khóa đầu tiên. Đây được coi là bước đột phá trong đào tạo về di sản tại Việt Nam hiện nay, nhờ lần đầu tiên áp dụng “tư duy tổng thể và cách tiếp cận liên ngành cùng với các công cụ, kỹ thuật và công nghệ hiện đại”, nhằm mục tiêu bảo tồn, phát huy các giá trị di sản bền vững.  

TS Nguyễn Kiều Oanh, Phó Chủ nhiệm Khoa các khoa học liên ngành, ĐH Quốc gia Hà Nội khẳng định, thay vì đào tạo đơn ngành về bảo tồn, bảo tàng, phục chế… chương trình đồng thời trang bị cho người học các kỹ năng nghề nghiệp có tính thực tiễn cao. Nhờ đó, người học có đủ khả năng nhận diện, phân loại, đánh giá, giải quyết các vấn đề thực tiễn trong nghiên cứu, thực hành và quản lý di sản. Những vấn đề liên quan như chính sách về di sản ở cấp độ quốc tế, quốc gia, đánh giá được tình hình thực thi chính sách; làm chủ được các phương pháp công cụ trong quản lý và lập kế hoạch di sản… cũng được đưa vào chương trình đào tạo.

Nhận định về tính thiết yếu của chuyên ngành này, TS Phạm Cao Quý, Cục Di sản văn hóa Bộ VH-TT-DL cũng khẳng định, ngành học này nằm trong sự phát triển chung của xã hội, của thế giới hiện nay, khi tiếp cận di sản theo hướng mới hơn, tổng hòa hơn.

“Nếu trước kia chúng ta tiếp cận di sản chỉ theo góc độ lịch sử, để bảo tồn và giữ nguyên trạng nó, phục vụ cho việc giáo dục, phát huy một phần để thu hút du lịch đơn thuần, việc mở ra ngành di sản học sẽ xây dựng nên một cách tiếp cận mới đối với di sản. Đó là bảo vệ và phát huy giá trị di sản gắn với phát triển bền vững. Nghĩa là di sản phải hòa nhập, phục vụ đời sống đem lại nguồn lực, sinh kế cho chính con người ngày hôm nay, ứng phó lại những vấn đề bất bền vững trong mối quan hệ giữa di sản và cuộc sống đương đại”, TS Phạm Cao Quý nói. 

Với sự ra đời của chương trình đào tạo trên, kỳ vọng đóng góp vào thị trường lao động nguồn nhân lực phù hợp, góp phần giải quyết bài toán về bảo tồn và gìn giữ di sản ở mức độ sâu sắc hơn.

Theo Vĩnh Xuân - SGGP

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Từ cuối tháng 6. 2008, trên mạng Internet, cùng lúc có những bài viết về nhiều nhà văn, nhà thơ ở Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Vàng Sao, Tô Nhuận Vỹ và ở Quảng Trị, Quảng Bình. Các bài viết được đăng tải trên các báo điện tử nước ngoài (hoặc sách in ra được các tờ báo đó đưa lên mạng), cả trên tờ báo của một tổ chức chống nhà nước Việt Nam cực đoan nhất, và trên blogs của một số nhà văn trong nước (được một số báo điện tử nước ngoài nối mạng sau đó). Mục đích khác nhau nhưng các bài đó, tạm xếp vào hai loại, có một điểm giống nhau: DỰNG ĐỨNG những sự kiện của cuộc đời và hoạt động của các nhà văn nhà thơ này.

  • Thư Sông Hương Vậy là năm đầu của thế kỷ XXI, của thiên niên kỷ III Công lịch đã qua. Mới ngày nào đó, khắp hành tinh này còn rộ lên niềm hoang mang và hoang tưởng về một ngày tận thế ở năm 2000 bởi sự “cứu rỗi” của Thiên Chúa hoặc bởi sự “mù loà” của máy tính. Mới một năm thôi mà thế giới loài người đã qua biết bao bất trắc, xung đột, khủng bố... và máu và nước mắt! May mà đất nước chúng ta vẫn được bình yên, ổn định, phát triển theo Đường lối Đại hội IX của Đảng. May mà dân ta vẫn còn nhu cầu Văn hoá tâm linh. Văn hoá tâm linh cũng là thuộc tính của văn học nghệ thuật. Các tờ báo văn nghệ tồn tại được chính nhờ nhu cầu đó. Qua một năm nhìn lại, Tạp chí Sông Hương chúng tôi ngày một được bạn đọc tin cậy hơn, cộng tác càng nhiều hơn, thật là điều vinh hạnh. Song, ngược lại, chúng tôi cũng lấy làm áy náy vì bài vở thì nhiều mà trang báo lại có hạn, không thể đăng tải hết được, nhất là số Tết này. Ở đây, nó mang một nghịch lý chua chát, bi hài như một nhà viết kịch đã nói: “Số ghế bao giờ cũng ít hơn số người muốn ngồi vào ghế”. Ngoài sự bất cập ấy, hẳn còn có những điều khiếm nhã khác mà chúng tôi không biết làm gì hơn ngoài lời xin lỗi, lời cảm ơn và mong được thể tất. Chúng tôi xin cố gắng chăm lo tờ Sông Hương luôn giữ được sắc thái riêng, có chất lượng để khỏi phụ lòng các bạn. Dù thế giới có biến đổi thế nào đi nữa thì Sông Hương vẫn mãi mãi muốn được thuỷ chung với bạn đọc, bạn viết của mình. Nhân dịp tết Nhâm Ngọ, Sông Hương trân trọng chúc Tết các bạn sang năm mới thêm dồi dào sức khoẻ, thành đạt và hạnh phúc. S.H

  • Các bạn đang cầm trên tay số kỷ niệm 25 năm thành lập Tạp chí Sông Hương. Mới ngày nào đó, một ngày hè tháng 6 năm 1983, trong niềm khao khát của không khí đổi mới trong văn học nghệ thuật, Tạp chí Sông Hương số 01 ra mắt và đón nhận sự hưởng ứng của công chúng. Đó là một sự khởi đầu được mong đợi từ hai phía: người viết và bạn đọc.

  • Gần đây đọc các bài của Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Hùng Vĩ bàn về ba bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến trên Văn nghệ (1), tôi thấy câu "Nước biếc trông như tầng khói phủ" trong bài Thu vịnh là câu thơ sáng rõ, không có gì khó hiểu mà lại được bàn nhiều. Mỗi người hiểu mỗi cách mà đều hiểu không đúng, chỉ vì không để ý rằng câu thơ này được viết theo lối "đảo trang".

  • (Nhân đọc: "Truyện Mã Phụng - Xuân Hương") * Truyện "Mã Phụng - Xuân Hương" trước đây còn được quen gọi dưới nhiều tên khác nhau, lúc là Vè Bà Phó, Vè Mã Phụng - Mã Long, khi là Thơ Mụ Đội, khi lại là Truyện Mã Ô - Mã Phụng v.v... là một tác phẩm văn học dân gian vốn được nhân dân Bình - Trị - Thiên rất yêu thích, phạm vi phổ biến trước Cách mạng Tháng Tám 1945 khá rộng.

  • Trên Tạp chí Sông Hương số tháng 3, nhân sự kiện Trần Hạ Tháp dành được giải A trong cuộc thi truyện ngắn của báo “Văn nghệ”, tôi vừa lên tiếng về sự “lặng lẽ” - một điều kiện cần thiết để làm nên tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị, nay lại nói điều ngược lại, vậy có “bất nhất” có mâu thuẫn không?

  • Trên thực tế, việc bảo tồn những vốn quý của cha ông để lại quả không phải là việc đơn giản, dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ không thể có sự chọn lựa nào khác bởi vì sẽ không có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nào cả nếu từ bây giờ chúng ta không biết giữ lấy những gì mình đang có.

  • Mang tên dòng sông duyên dáng thả mình bên thành phố Huế - SÔNG HƯƠNG, những trang tạp chí này là dòng chảy của những cảm xúc tươi đẹp trên “khúc ruột miền Trung” đất nước.

  • Từ xa xưa đến bây giờ, thường tục vẫn nói "sông có khúc người có lúc". Không biết Sông Hương bản báo năm rồi (năm tuổi 15) là sông hay là người? Có lẽ cả hai. Vậy nên cái khúc và cái lúc của nó đã chồng lên nhau - chồng lên nhau những khó khăn và tai tiếng!