Nhà thơ Đông Hà - Ảnh: Lê Vĩnh Thái
Thiên nhiên và con người là hai đề tài rất quen thuộc trong văn chương nói riêng và văn học nghệ thuật nói chung. Cuộc sống tự nhiên dù xoay vần đến đâu thì thiên nhiên và con người vẫn là hai chủ thể trung tâm của vũ trụ. Vì vậy, đề cập đến cuộc sống văn chương, thiên nhiên và con người xuất hiện là một lẽ tất yếu. Thiên nhiên và con người xuất hiện trong ký Hoàng Phủ Ngọc Tường như một lẽ tự nhiên nhưng vẫn khoác cho mình sắc thái và phong cách riêng biệt. Điều đầu tiên người đọc dễ dàng nhận ra, đó là sự hòa điệu. Đây cũng chính là sự thừa hưởng một phong cách cổ văn theo tư tưởng triết lý phương Đông “Thiên nhân cảm ứng”. Con người phương Đông khác với phương Tây, nặng về cái “ta”, về sự giao hòa giữa con người, thiên nhiên, vũ trụ. Thế đối xứng trong quan niệm người phương Đông chính là sự tương hợp giữa Nhân - Thiên - Địa. Văn chương từ xưa đã rất nặng về mối quan hệ này. Thiên nhiên trong văn thơ xưa thường được biểu trưng qua mây hoa tuyết nguyệt, trúc mai đào liễu. Hoàng Phủ Ngọc Tường thừa hưởng tư tưởng triết lý cổ nhân nhưng đã phả vào cái hồn mới của văn học hiện đại. Thiên nhiên trong tác phẩm của anh chân thật, sinh động như vừa được bóc ra từ cuộc sống để dán vào trang viết chứ không đơn thuần là sự tinh lọc đến khuôn phép như thi ca xưa. Anh viết về thiên nhiên thật tự nhiên, những gì anh bắt gặp, những gì anh chợt thấy đã để lại những dấu ấn trong tâm trí anh thì buộc phải nói ra như một lời giãi bày, một lời phân ưu giữa cuộc sống. Trong tác phẩm của anh vì vậy có thể được đời sống của những lưu vực dòng sông, nghe được từng hơi thở của đời cây đời cỏ, ngửi được mùi hương của hoa lá và đau cùng tiếng kêu của những con chim bị trúng thương bởi tiếng súng của những kẻ bất tâm. Mỗi tác phẩm như một đời sống thiên nhiên thu nhỏ, được nhà văn miêu tả thật hồn nhiên, không một chút màu mè gượng gạo. Thiên nhiên và con người trong ký Hoàng Phủ Ngọc Tường vừa quyện vào nhau, rồi đôi lúc lại tách ra thành hai người bạn đồng hành. Nếu nói rằng nhà văn muốn lấy thiên nhiên làm chủ thể cũng đúng, con người làm chủ thể cũng không sai và thiên nhiên cùng con người tạo thành chủ thể cũng quá ư chính xác. Ở tác phẩm này thiên nhiên trở thành một đối tượng được nhà văn miêu tả riêng biệt, ở tác phẩm kia con người lại được ngòi bút ưu ái đề cập đến mọi ngõ ngách sâu xa của tâm hồn. Và đâu đó ở những trang viết khác, con người cùng thiên nhiên lại gộp chung trong một vấn đề nào đó được nhà văn phân tích mổ xẻ bao giờ không hay. Viết về hai đề tài này không mới nhưng Hoàng Phủ đã tạo ra được nhiều cái lạ, độc đáo trong văn phong riêng. Anh biết tìm đến cội nguồn của thiên nhiên để hiểu thiên nhiên chứ không chỉ đơn thuần chiêm ngưỡng những gì mà trời đất ưu đãi. Khi viết về một điều gì đấy của thiên nhiên anh luôn có một sự giải thích đến nguồn cội của nó. Từ một dòng sông với câu hỏi thắc tha thắc thỏm “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đến những cánh rừng trên thung lũng A Sầu. Một ngọn núi mang nhiều ảo ảnh huyền thoại Bạch Mã. Một thành phố riêng của “nhân loại tím”, những con đường có hàng cây gọi mùa chim di trú… tất cả tạo nên một khung cảnh thiên nhiên vừa rộng rãi lại vừa sâu sắc. Hoàng Phủ viết về tất cả mọi cái tồn tại trong thiên nhiên nhưng giọng văn khéo léo khiến người đọc không tìm ra một chút xao nhãng bừa bãi của chữ nghĩa. Thiên nhiên Huế sinh ra vốn đã có một sự quyến rũ đầy thơ mộng. Đó là một quần thể văn hóa với những đền đài lăng tẩm, những kiến trúc nguy nga tráng lệ và sự hài hòa cân bằng độc đáo. Hoàng Phủ đã biết tận dụng những ưu đãi tạo hóa đã phú cho Huế để khêu lên thành cái hay, cái hoàn bích trong văn chương của mình. Văn phong anh lắm điều ẩn dụ. Nó như đi từ cảnh sắc này sang nơi bài trí khác, dẫn dắt người đọc lang thang giữa một vườn thiên nhiên hấp dẫn, đầy khuyến dụ và đam mê. Nói về sông Hương như sản vật gia bảo của Huế, anh tường tận đến nơi con sông sinh ra và những chặng đường dòng sông đã đi qua để lớn lên và trở về với biển cả: “…giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái digan phóng khoáng và man dại… ” để khi về lại thành phố, qua những khúc quanh tự nhiên cơ hồ như thân phận cuộc đời, dòng sông dịu dàng “…uốn một cánh cung rất nhẹ…” “như một tiếng “Vâng” không nói ra của tình yêu…”. Nhà văn miêu tả thiên nhiên, miêu tả dòng sông mà như khắc họa nơi sâu nhất tâm lý dòng sông, cơ hồ thiên nhiên cũng có trái tim như con người vậy. Phải chăng nhà văn đã khéo léo đánh tráo trái tim của kẻ đa cảm vào lồng ngực dòng sông, tạo cho con sông thiên nhiên trở thành một kiều nữ đất cố đô. Viết về thiên nhiên Huế không chỉ riêng Hoàng Phủ Ngọc Tường mà biết bao nhiêu nhà thơ nhà văn đã chạm ngoài bút vào tâm hồn Huế. Một Hàn Mặc Tử khắc khoải trong nỗi ngóng trông “Sao anh không về chơi thôn Vỹ”. Một Thu Bồn da diết bâng khuâng trong cách hiểu sâu sắc “con sông dùng dằng con sông không chảy/ sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu” Và Dương Phước Thu với tập ký “Dòng sông nắng đục mưa trong” cũng đã hiến cho bạn đọc đôi điều về cảnh sắc Huế. “Núi Ngự Bình trước tròn sau méo/ Sông An Cựu nắng đục mưa trong”… Rất nhiều nữa là đằng khác. Cứ như từ xa xưa lắm, Huế đã sinh ra cho thi ca vậy. Mà khi bước vào ký Hoàng Phủ, thiên nhiên Huế như chợt vừa được đánh thức trước cái đẹp đơn sơ nhưng rất đỗi ngỡ ngàng. Một ngọn cỏ một lá cây, một cánh hoa tàn và một thanh âm chưa rõ từ đâu vọng lại cũng tạo nên một thiên nhiên Huế đắm say trong ký của anh. Bằng lối viết nhiều ẩn dụ như thế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã hướng người đọc một cái nhìn về con người thật nhẹ nhàng, cảm nhận những nét đẹp về con người thật nhẹ nhàng, cảm nhận những nét đẹp về con người trong tác phẩm của anh không hề bị khiên cưỡng. Nhân vật trong ký không nhiều. Một tác phẩm thường chỉ một hay hai nhân vật (rất ít khi xuất hiện số đông) nhưng Hoàng Phủ đã biết tiếp cận nhân vật ở nơi sâu nhất của thế giới tâm hồn giúp người đọc thấy được nét riêng trong mỗi cái tên, mỗi gương mặt. Con người xuất hiện trong ký Hoàng Phủ không phải để giới thuyết về một cuộc đời trong cõi sống mà qua cách sống, qua đời sống của họ. Những nhân vật cụ thể được đưa ra từ cuộc sống có thật nhưng đã được nhà văn chọn một góc độ thích hợp nhất để tiếp cận nên không có cảm giác gượng gạo hay phô bày. Họ bước vào tác phẩm một cách hồn nhiên chân thật nhất. Xuất hiện bên cạnh thiên nhiên, con người làm rạng rỡ thiên nhiên và thiên nhiên dường như cũng nói hộ con người những gì khó bộc bạch. Khác với con người khảng khái “ăn sóng nói gió” trong ký Nguyễn Tuân, con người trong ký Hoàng Phủ như rẽ hoa lá mà bước ra. Xuất hiện thật nhẹ nhàng, từng gương mặt hiện lên đủ các cung bậc: là người chiến sỹ (Rất nhiều ánh lửa, Chiếc Panhxô và khẩu súng của Trường), người phụ nữ yêu nước (Hoa trái quanh tôi), người con trai dân tộc đậm đà chất phác (Đời rừng), chàng nghệ sỹ lãng du tài hoa (Như con sông từ nguồn ra biển)… Đặc biệt với Hoàng Phủ, những nhân vật của anh không bước vào tác phẩm ngay từ đầu trang viết mà qua sự dẫn dắt của tác giả từ nơi họ tồn tại, từ thiên nhiên đang tạo dựng xung quanh họ, như một tấm bình phong cho những nhân vật đó đứng lên. Có một điều cần nói khi đề cập đến hệ thống nhân vật trong ký Hoàng Phủ Ngọc Tường, ấy là con người xuất hiện không nhằm đưa theo một loạt những tình tiết, tiểu tiết để tạo dựng thành một điểm riêng nổi bật nào đó. Tất cả cứ lặng lẽ nhẹ nhàng nhưng lại đủ sức thuyết phục người đọc dành cho họ một nét suy nghĩ riêng khó trộn lẫn vào ai mà lại không xa lạ với những con người xung quanh. Những nhân vật bình dị ấy nếu cần họ có thể đại diện cho một mẫu người, một lớp người hay cả một thế hệ. Thiên nhiên trong ký Hoàng Phủ không xuất hiện tượng trưng cho một bức tranh mà đó là lời thủ thỉ tâm sự của con người hòa lẫn và đồng điệu cùng thiên nhiên. Những tên đất tên người cụ thể không làm mất đi sự thi vị hóa trong ký của anh mà ngược lại dưới cách thể hiện bằng độ mờ hóa bao phủ của óc liên tưởng tài tình, thiên nhiên càng lộng lẫy và con người thêm hoành tráng. Chính điều này khiến tác phẩm anh đạt được giá trị cao khi viết về đề tài quen thuộc. Đặc điểm nữa tạo nên một thiên nhiên và con người riêng của ký Hoàng Phủ Ngọc Tường đó là chất Thiền đã ngấm vào trong từng hơi thở của những gì đã chảy ra dưới ngòi bút của nhà văn. Những gì anh đưa đến cho người đọc không tạo cảm giác choáng ngợp mà nó nhẹ nhàng len lỏi tạo thành sức thuyết phục của cái đẹp trong chiều sâu tâm tưởng. Chiêm ngưỡng thiên nhiên và thần phục con người trong ký Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ bằng trực giác mà phải vận dụng đến độ sâu của tâm hồn mới thấu đáo hết các ngõ ngách giá trị thẩm mỹ và nhân bản. Ký Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện tất cả những mặt của cuộc sống. Anh viết nhiều đề tài khác nhau. Đó có thể là chiến tranh, là sự đấu tranh của bản thân khi đứng ngoài nhìn vào cuộc chiến, cũng đôi khi là những người bạn đồng chí cách mạng cùng vài mối tình lãng mạn nên thơ, hay sự cam go của ngày thường ngoài đảo… Rất nhiều nhưng đặc biệt nổi trội vẫn là thiên nhiên và con người Huế. Ở đó có sự quy tụ của một tổng thể bản sắc văn hóa riêng của một vùng đất kinh thành. Đ.H (264/2-11) |
TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.
TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?
HOÀNG NGỌC HIẾN ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...
THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.
TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.
ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.
ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…
HỒ THẾ HÀ Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.
JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...
PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...
HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.
HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.
NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.
ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.
LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.
TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.
PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!
NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.