Thi pháp tiểu thuyết và chất sử thi trong phả chí [*]

08:16 23/04/2013

Hoàng Minh Tường

Nhà văn, nhà báo Lê Khắc Hoan xuất hiện và gây ấn tượng trên văn đàn khá sớm: Năm 1959, khi đang là giáo viên trường Hoằng Thắng, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa, Lê Khắc Hoan đã có truyện ngắn đầu tay Đôi rắn thần trong hang Pa Kham đoạt giải Khuyến khích báo Thống Nhất (Nguyễn Quang Sáng giải Nhất với truyện ngắn Ông Năm Hạng).

Năm 1960, truyện ngắn “ Chuyện một cô giáo mới” đoạt giải ba báo Văn Nghệ (Nguyễn Khải giải nhất với truyện ngắn “ Một cặp vợ chồng”, Chu Văn giải nhì với “Con trâu bạc”, Hồ Phương giải ba đồng hạng với “Cỏ non”). Năm 1961, Lê Khắc Hoan, tỏ ra vượt trội khi thi đấu trên “sân nhà”, ấy là cuộc thi viết về “Thầy giáo nhà trường” do Bộ Giáo dục và báo Người giáo viên Nhân dân tổ chức. Ông đoạt giải nhất với truyện ngắn “ Chân trời xa xôi”, trên các đối thủ mà mười năm sau tên tuổi sẽ lừng lẫy trên văn đàn, như Ma Văn Kháng, Xuân Sách, Định Hải…

Con người thủ mệnh sao Hóa Khoa này, đã thi là đỗ. Và khi đã “ẵm” giải cao rồi thì dừng bút. Suốt 50 năm sau, ông chỉ chuyên tâm viết báo, và chỉ viết về ngành giáo dục, về công việc “trồng người”, từ báo “Người Giáo viên Nhân dân”, đến báo“Giáo dục và Thời đại”, tạp chí“Thế giới mới”,” Dân trí”,”Trí tuệ”…

Con người  tưởng như đóng cửa phòng văn, gác bút từ thời trai trẻ, để theo nghề báo, nào ngờ vào tuổi 75, lại cho ra đời một tác phẩm dày tới 450 trang, trầm luân thế sự, ngổn ngang thế thái nhân tình. Cuốn sách có tựa đề : “Trăm năm ly hợp – Lê Khắc gia phả chí”, một cuốn gia phả theo đúng như ý định khiêm nhường của tác giả - chỉ viết cho dòng tộc, ký thác với anh em con cháu họ Lê Khắc làng Văn Xá tỉnh Thừa Thiên-Huế, câu chuyện của gia đình…, nhưng khi được công bố, lại được bạn đọc đón nhận như một tác phẩm văn chương ngồn ngộn chất liệu đời sống và giàu chất nghệ thuật.

Câu chuyên bắt đầu từ đám tang của ngài Văn Phố Lê Khắc Thứ, Chủ nhiệm Việt Minh, cha của tác giả (Văn Trí trong tác phẩm), giữa mùa hè năm 1946. Đây cũng là “thời điểm đau thương phát nổ trái bom ly tán dòng tộc Lê Khắc làng Văn Xá” (tr.7). Mặt trận Huế vỡ, Pháp quay trở lại. Toàn quốc kháng chiến. Một số trong dòng họ Lê Khắc ở lại làng, ở lại Huế, vườn không nhà trống tiêu thổ kháng chiến. Số đông hơn gồm hai bà mẹ, hơn mười anh em theo người anh rể Việt Minh trong sở thuế vụ ra chiến khu Bình Trị Thiên khói lửa. Khi ấy, tác giả, người con thứ tám của bà hai, là một trong số mười bẩy người con của ngài Văn Phố, mới lên 9 tuổi.

Sức hấp dẫn của tác phẩm nằm trong hệ thống nhân vật được lịch sử mặc định, khiến người đọc bị thuyết phục, tin và hồi hộp theo dõi ngay từ đầu: Dòng Lê Khắc làng Văn Xá là dòng họ khai nguyên, mở đất từ thời Lê sơ. Cụ nội, ông nội, bố đẻ tác giả đều làm quan cho triều đình Huế. Đặc biệt, câu chuyện tình duyên của người cha hào hoa phong nhã và chế độ đa thê trong các gia đình phong kiến thời trước cách mạng, cùng sự tan đàn sẻ nghé do sự va đập của cuộc chiến khốc liệt, khiến câu chuyện của một gia đình bỗng hàm chứa một dung lượng, một quy mô mang ý nghĩa phổ quát, bao trùm. Chất tiểu thuyết bắt đầu từ cuộc tình tay tư giữa ngài tri huyện Văn Phố, thân sinh của tác giả với ba cô con gái cành vàng lá ngọc, con của Công nữ Kỳ Vân, cháu nội vua Minh Mạng và quan Hiệp tá đại học sĩ Nguyễn Hữu Mẫn, người sáng lập trường Quốc học Huế, thầy dạy của hai người học trò nổi tiếng trong lịch sử sau này: Nguyễn Tất Thành  và Ngô Đình Diệm.

 “Quan thượng nhất phẩm triều đình và phu nhân là bà quận chúa kiêu kỳ gả liền liền ba tiểu thư khuê các cho một thuộc quan lẹt đẹt hàng ngũ phẩm! Chuyện tương tự không biết từng xảy nơi đâu?

Ba bà, ba chị em con quan cháu vua. Cùng cha cùng mẹ. Chung chồng. Bà cả, Nguyễn Thị Tuyêt, sinh 5 lần nuôi được 3. Bà hai, Nguyễn Thị Lâm, đẻ 9 con nuôi được 8. Bà ba, Nguyễn Thị Điện, đẻ 8 lần còn 6. Cả đàn con ông Văn Phố sinh 22, thành niên 17, không phân biệt con của bà nào, đều gọi bà Tuyết, chánh thất, là Mạ, bà Lâm, thứ thất là Dì chị, và bà Điện là Dì em. Năm 1932, bà Tuyết mất,  được gọi là Mạ đời xưa, tôn bà Lâm lên chánh thất, làm Mạ.” ( tr10)      

Mười bẩy người con của ngài Văn Phố, từ năm 1946, cùng với hàng trăm anh em họ hàng Lê Khắc, ly tán trong Nam ngoài Bắc, người dưới chế độ Cộng Hòa, người theo Cụ Hồ kháng chiến, tạo nên bức tranh đa diện, không hề cá biệt mà có tính khái quát cho cả cuộc phân ly Nam Bắc nửa sau thế kỷ 20.

Ba anh con đầu của Mạ đời xưa, năm 1946 đã trưởng thành, người xuôi Nam, trở thành quan chức ngoại giao chính phủ Việt Nam Cộng hòa (Lê Khắc Hoài), người ngược ra Việt Bắc, trở thành quan chức thuế vụ hàng đầu của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Lê Khắc Điềm), người ở lại, giám đốc cảnh sát Trung phần-Trung nguyên,  từng đưa nhà tình báo báo huyền thoại Vũ Ngọc Nhạ  diện kiến lãnh chúa miền Trung Ngô Đình Cẩn (Lê Khắc Duyệt). Những người con còn lại của Mạ Lâm và Dì Điện, từ chiến khu Bình Trị Thiên, chuyển dần ra vùng tự do Thanh Hóa, sống với cuộc kháng chiến chín năm, rồi cuộc kháng chiến chống Mỹ, trở thành nông dân, công nhân, nhà giáo, kỹ sư, bác sỹ, nhà khoa học, bộ đội tình nguyện về giải phóng quê hương. Đau đớn nhất là Dì Điện. Năm 1953, đời sống quá khó khăn, dì quyết định cùng Khôi, người con trai lớn mười sáu tuổi, về Huế, hy vọng gặp mẹ là Công nữ Kỳ Vân xin tiền mang ra Thanh Hóa nuôi các con. Chuyến đi vô vọng vượt núi lội suối trong bom đạn gian nguy không kể xiết, hai mẹ con vĩnh viễn nằm lại cửa ngõ Hương Trà. Ba người con còn lại, Duy, Kháng, Lượng, cùng người chị nuôi Nguyễn Thị Kỳ trứng gà trứng vịt nuôi nhau, có thời gian khó khăn quá, phải chia nhau đi ở đợ, lưu tán giữa vùng thượng nguồn sông Chu, sông Mã. Năm 1966, Lê Khắc Lượng, rồi Lê Khắc Kháng lên đường về Nam chiến đấu, đi suốt ba cuộc chiến tranh. Lê Khắc Duy vào thanh niên xung phong. Các con út của ngài Văn Phố sống cuộc đời người lính như hết thảy hàng triệu những người lính Trường Sơn bất tử…

Tác phẩm thuộc loại truyện ký, ký sự tư liệu, kết cấu theo thời gian, theo nhóm nhân vật, nhưng vẫn có mối liên kết xuyên suốt. Tác giả triển khai theo diện, rồi tập trung vào điểm, làm rõ nét những nhân vật chính. Nổi bật nhất là các chương “Oan hồn nguôi hận”, “Dấn thân”, “Họa vô đơn chí”, “ Một bà mẹ chưa được vinh phong”, “Kháng”, “Chuyện ông chú út hai lần cầm vàng mà lội qua sông”, “Vị võ quan tứ đẳng thị vệ và người con trai tư duy sáng tạo khoa học đa ngành”, ‘’Hai cô gái tộc Lê luân lạc” vv… Nhiều nhân vật được tác giả khắc họa như những nhân vật điển hình, với vóc dáng sừng sững, tính cách nổi bật, số phận éo le đầy chất tiểu thuyết, như Mẹ Lâm, dì Điện, Lê Khắc Kháng, Lê Khắc Lượng, Lê Khắc Tình, thầy giáo Văn Khê, vợ chồng Báu – Luân, kỹ sư Lê Khắc Linh, hai anh em ruột Lê Khắc Hiền, Lê Khắc Thành, bác sỹ Lê Khắc Quyến, nhà báo Nguyễn Thị Kim Thu, Trần Thục Hà vv…

Người đọc khó cầm nổi nước mắt khi đọc nhiều chương (Cái chết của hai mẹ con Dì Điện; Cuộc tình éo le của Khê – Vân, Luân – Báu; Cuộc vượt biển của ba chị em Trần Thục Hà…), đặc biệt là chương VI : “ Một người mẹ chưa được vinh phong”, người mẹ của tác giả. Đó là bà hai Nguyễn Thị Lâm, từ một tiểu thư khuê các con quan nhất phẩm triều đình và bà quận chúa, người mẹ góa bụa, chân yếu tay mềm vậy mà mang một đàn con gà con vịt tám đứa bước vào một cuộc ly tán khốc liệt. Mẹ chính là hình ảnh bà cụ Huế, “điếu thuốc  sâu kèn to bằng ngón tay cái  vắt vẻo trên môi, đôi vai hẹp và gầy chúi về phía trước, mái tóc bạc phơ như phủ đầy sương trắng rung rung sau gáy…”( tr 100), ngày ngày quẩy gánh hàng xén ở vùng Hậu Lộc, Hoàng Hóa xứ Thanh tần tảo nuôi con, đi theo kháng chiến. Đó chính là hình mẫu bà mẹ trong truyện ngắn “Chân trời xa xôi”, trong truyện vừa “Mái trường thân yêu”của tác giả. Một người mẹ chưa được vinh phong, nhưng xứng đáng một bà mẹ anh hùng, hơn cả một nữ anh hùng.

Đọc phả chí, nhưng độc giả tưởng mình đang đọc tiểu thuyết, một cuốn tiểu thuyết giàu chất sử thi. Tác giả, Văn Trí, với nhiệm vụ người dẫn chuyện, nhân vật chính của tác phẩm, bản thân đã là một số phận nhiều biến cố, lại là một người duyên nợ với văn chương, ông đưa người đọc đi hết từ tình huống này đến tình huống khác, gặp các nhân vật điển hình, chứng kiến đủ những cảnh ngộ ái, ố, hỉ, nộ. Bút lực của ông, khi như một anh chàng “Trương Ba” siêu thủ, bằng con dao bầu, éc một tiếng đã trình làng một phản thịt với thủ, giò, ba chỉ, tim, cật, lòng , dồi, tiết canh…, khi lại như một nghệ nhân kỳ tài, trạm trổ từng cánh tủ, từng bức hoành phi câu đối. Ấy là khi ngọn bút của ông luồn lách đặc tả một bi kịch, một khúc nhôi đời người (chuyện gia đình Khê – Vân), lúc dựng lại một hình thái văn hóa tâm linh đầy Liêu trai, mê hoặc (cảnh cầu cơ tìm hài cốt Dì Điện), khi đưa người đọc vượt sông Đà bay bổng cheo leo lên tít ngôi trường của người Hà Nhì ở vùng cao Pá Chải, Mường Tè, Lai Châu (cảnh thầy giáo Văn Khê đi cắm bản), lúc lại chen chúc, lặn ngụp trên suốt con tàu xuyên Việt bão táp vừa ra khỏi cuộc chiến (Văn Trí đi “buôn” trên tàu Bắc Nam)…  Sự thật khốc liệt, đau đớn, bi hùng được dẫn dụ bằng một ngòi bút có sức khái quát cao, khéo chọn lọc các chi tiết đời sống điển hình, các tình huống có vấn đề… chính vì thế câu chuyện một gia đình, một dòng họ bao chứa nhiều câu chuyện của nhiều gia đình, nhiều dòng tộc.

Câu chuyện của trăm năm, nhưng chừng như vẫn còn một phần ba chặng đường phía trước. Ly đã đến cùng, mà hợp còn mong mỏi. Lòng người dẫu muốn, nhưng còn chính thể, thời cuộc(!) Bao nhiêu số phận của dòng họ Lê Khắc còn khuất lấp, còn chưa được chính danh vì …lý do kỹ thuật(!) . Để viết hết về sự thật một dòng tộc, một Đất nước, đâu phải chuyện dễ. Hàng nghìn con mắt Lê Khắc, trong nước và hải ngoại đang chú mục nhìn vào xem ông Văn Trí có đứng về bên nào không? Có “lật áo cho người xem lưng” không? Đến như nhà văn Nguyễn Công Hoan trước đây, viết truyện ngắn, tiểu thuyết mà còn bị bao nhiêu người kiện tụng, huống chi đây là ký sự, là gia phả?

Gấp cuốn sách lại, nhiều người sẽ bảo rằng: Họ Trần, họ Nguyễn, họ Phạm, họ Hoàng, họ Trương… nhà mình, nếu viết, cũng phong phú, ly kỳ như thế này. Vâng, đó chính là thành công của Lê Khắc Hoan và “ Trăm năm ly hợp”. Lê Khắc Hoan không chú viết vì văn chương. Ông viết vì mục đích tự thân, vì sự ký thác cho con cháu dòng tộc. Và nền văn học, đôi khi  được thụ hưởng như một tình cờ. Nếu có thêm những gia phả chí như “Trăm năm ly hợp”, hậu sinh sau này chắc chắn sẽ có những bức tranh toàn cảnh sống động và chân thật về cuộc hành trình bi tráng, khốc liệt, thấm đẫm máu, nước mắt, hạnh phúc và đau khổ, nối tiếp các thế hệ trên con đường hình thành một nước Việt chìm nổi và mến yêu của hôm nay và mai sau.

HMT

......................................................................................................... 

[*]:  (Đọc TRĂM NĂM LY HỢP – Lê Khắc Gia phả chí NXB Lao Động 2013)

Theo Văn nghệ số 16/2013)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)

  • THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.

  • HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)

  • TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.