NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Trong thơ trữ tình, lịch sử không tồn tại. Trường ca làm chúng tồn tại.
Ảnh: internet
Thi Hoàng viết cả hai. Anh dừng lại trong một buổi trưa: nhiều thi sĩ từng nói đến nó. Buổi trưa nông thôn:
Mỗi lần nắng mới hắt bên song
Xao xác gà trưa gáy não nùng
Không gian của Lưu Trọng Lư rộng rãi, câu thơ bảy chữ giãn ra. Trong bài Tiếng Trưa của Thi Hoàng, hầu hết sáu chữ, tiến độ dồn dập, không gian nén lại. Việc sử dụng nhiều hình ảnh, các hình ảnh gác lên nhau, là đặc điểm của thơ Thi Hoàng. Sự kết hợp của chúng khác với thơ thời trước: hình ảnh càng nhiều thì sự kết hợp càng lỏng lẻo, thơ dễ làm, khó hay.
Một buổi trưa nắng vàng in trên tóc
Mây trên trời xuống phủ ở trên vai
Màu phương cảo pha mờ trên nét ngọc
Bước ngại ngùng nẻo mộng mấy lần sai
Tám chữ. Không gian mênh mông, thời gian thảnh thơi. Có lẽ Bùi Giáng đang đứng trong ngày thanh bình an lạc, thiên nhiên hòa làm một với con người, đi vào cõi người, bởi vì nắng thì in lên tóc, mây thì phủ xuống vai, thân thể thì mờ phương cảo, đến nỗi người thơ bước dẫm phải mộng, lạc nẻo mông lung.
Tôi vừa nhắc đến thanh bình. Bài thơ của Thi Hoàng có lẽ viết trong hòa bình. Nhưng hòa bình và thanh bình là hai chuyện khác nhau. Bốn phương phẳng lặng hai kinh vững vàng mà vẫn sôi động bi kịch.
Có hai loại bi kịch: Kiều là bi kịch ngoại cảnh.
Such blue, such quiet blue, it troubled me
Màu xanh, màu xanh im lặng thật, làm tim ta giật thót rối bời
Là nội tâm. David Constantine, một lần tới Vancouver, đọc bài thơ, nói về buổi trưa trữ tình triết học. Màu xanh im lặng làm ta kinh ngạc. Tiến độ của câu thơ không chỉ được xác định bởi số chữ trong câu mà còn do nhiều yếu tố trong đó có các chữ quan trọng. Khi đọc lên, các chữ quan trọng trong một câu được nhấn mạnh hơn chữ khác, có thể gọi là các chữ đệm hay phụ thuộc.
Mỗi lần nắng mới hắt bên song
Các chữ nắng, hắt, song là quan trọng, được trải đều trong câu, nằm xen kẽ giữa các chữ đệm.
Nắng gió vun cao từng đống
Các nhóm chữ nắng gió, vun cao, từng đống đều quan trọng như nhau, ở giữa chúng không có các chữ đệm, ngay cả chữ vun và chữ từng.
Tiếng Trưa
Nắng gió vun cao từng đống
Trời xanh nhìn thẳng vào tim
Chuông chùa rung như áo mỏng
Dậu thưa văng vẳng hoa bìm
Tiếng ve luồn qua trôn kim
Hương thơm vào không khép cửa
Tình thương ủ chín nồi cơm
Lòng tốt đang cho con bú
Quả đắng muốn trèo cao thế
Mùi hôi đòi vẽ chân dung
Thông không sao, không sao cả
Trước sau còn có vô cùng
Có một con kiến ung dung
Chững chạc bò qua vất vả
Có một thảnh thơi chiếc lá
Bâng khuâng chán rồi bâng quơ
Ai như chiếc kẹo vàng mơ
Ngọt sắc giữa trưa thăm thẳm
Thịt da nhòa vào im ắng
Khoảng không gõ cùng kêu mà.
Khuôn mặt tráng lệ của thiên nhiên là trung tâm của hạnh phúc. Những phẩm chất cao quý, bền vững hơn sự phá hủy, bạo động, làm nên ý thức tự do. Phẩm chất quan trọng của con người là biết thưởng thức, khả năng rung động trước hòa điệu. Bạn nghe được âm thanh gì ở đây?
Dậu thưa văng vẳng hoa bìm
Tiếng động của hoa bìm như những cái chuông nhỏ. Hay hoa bìm như những vành tai lắng nghe. Hay cả hai? Số chữ trong câu thơ của Thi Hoàng ít thay đổi. Câu của anh đều đặn, theo luật, không bứt phá, thiếu tự do. Nhưng bù lại, anh thay đổi cấu trúc trong từng câu, dồn năng lượng nhiều hơn cho trật tự của chúng.
Nếu được ví như sợi dây đàn, sức căng của một câu thơ nằm trong các vần nội tại: điều này đúng cho mọi trường hợp.
Ngay từ những câu đầu tiên của bài Tiếng Trưa, nhà thơ đã đưa chúng ta vào khung cảnh của anh, bầu trời mở rộng, mây và nắng, cỏ và hoa, trộn lẫn với những quan niệm và ý tưởng.
Nắng gió vun cao từng đống
Không có mây mà như có mây. Nét vẽ trầm tư, nhịp đi nhanh mà không vội vàng, như thể thế giới đang chờ đợi chúng ta, đang trò chuyện với chúng ta, bạn phải đi tới đó.
Tới một miền quê yên tĩnh. Trong khi các nhà thơ thời kỳ lãng mạn xem thiên nhiên là nơi trở về, là phản ứng chống lại quá trình đô thị hóa, thì các nhà thơ sau đó không có khuynh hướng lý tưởng như thế, đối với họ thiên nhiên không được thuần hóa, không được văn minh hóa, nhưng cũng không hoàn toàn hoang dã, chống lại con người. Sau những thế kỷ ánh sáng, sự tin tưởng vào văn minh cơ khí, xem xét vạn vật như một guồng máy đã dần lụi tàn, nhưng tâm hồn Việt Nam chưa hề là một tâm hồn sầu lụy. Người phương Tây có chứng bệnh văn chương sầu cảm (melancholy) mà tôi không mấy khi tìm thấy ở nhà văn Việt Nam. Sự quan sát, sự lắng nghe, sự trầm tư dịu dàng, là những điều chúng ta nhìn thấy được ở bài thơ này, đó chẳng qua là phương châm của đời sống. Trước thiên nhiên, người phương Tây vẫn có ý thức rõ ràng hơn về sự hiện hữu của mình, giới hạn của mình, trong khi người Việt Nam thường vô phân biệt, do đó tìm thấy sự cân bằng dễ hơn.
Hương thơm vào không khép cửa
Phải đi đến gần đoạn cuối, bài thơ mới thay đổi tâm trạng của nó, chuyển qua một nhân vật, cất lên tiếng nói khác. Trong nhiều bài thơ khác, Thi Hoàng cũng lập lại cách lập tứ này, anh không có nhiều thay đổi trong một bài thơ, và những thay đổi diễn ra khá muộn nếu chúng xảy ra. Tuy thế, sự muộn màng ấy một mặt là khuyết điểm kỹ thuật, mặt khác lại tạo ra giọng thong thả, khí hậu huyền ảo riêng biệt.
Ai như chiếc kẹo vàng mơ
Ngọt sắc giữa trưa thăm thẳm
Về mặt ngôn ngữ, thể sáu chữ là một thể đặc biệt trong thơ Việt. Không nhiều chỗ như trong thơ bảy chữ, tám chữ, không quá chặt chẽ như thơ năm chữ, các câu thơ sáu chữ ít khi trở nên xuất sắc đặc biệt nhưng cũng ít khi là những câu quá dở. Tôi nghĩ sự ngắn gọn tương đối của chúng đã tạo ra tính nước đôi này. Chất giọng của anh vẫn xuyên suốt, thong thả, đều đặn, nhưng không gian khác, khí hậu khác. Bằng cách nào?
Sự phá vỡ nhịp.
Hoa mẫu đơn cũng tưng bừng í ới
Khói hương bài thơm tỉ tê lân la
Cây vun tán lên vun xôi đóng oản
Gió liu riu cho thấm tháp chan hòa
Câu thứ hai của Thi Hoàng ra khỏi nhịp thông thường.
TBBBTBBB
Chữ thứ 5 và thứ 6 đổi chỗ cho nhau.
Các câu thơ Thi Hoàng không lập lại hoàn toàn, nhưng gây cảm giác trùng điệp. Người ta thường nói về cảm hứng, nhưng tôi nghĩ cần nhấn mạnh đến khả năng làm chủ ngôn ngữ như một kỹ thuật có thể học tập. Sự chọn lựa thể sáu chữ trong bài thơ Tiếng Trưa là một chọn lựa thành công. Cấu trúc gọn ghẽ, phân đoạn mỗi đoạn bốn câu, chọn cách viết đối xứng, làm cho bài thơ trở thành một cấu trúc cân đối. Bài thơ không điển hình cho một bài thơ trữ tình - thiên nhiên, tuổi thơ, con người lớn lên, tình yêu đầu đời, tan vỡ, thương tiếc. Trong bài thơ không có thời gian, mọi vật vận động mà vẫn như đứng lại, như hình ảnh trong một bức tranh hơn là một động lực. Bài thơ không nói về số phận một người mà nói về vị trí của con người, về nghệ thuật nhìn và nghe, về khả năng hóa thân vào ngoại cảnh, trở thành một với vạn vật: khả năng biến mất. Biến mất là một đức tính. Hầu hết những câu thơ đều có một chủ từ, một trạng từ: tất cả đều hành động. Sự biến đổi trong im lặng, sự biến đổi không thông qua thời gian. Sự dừng lại, tỉnh thức. Nhưng đó không phải là loại thơ triết lý. Thi Hoàng cố gắng đẩy lùi biên giới của thơ trữ tình, không phải chỉ bằng việc làm mới ngôn ngữ, mà còn, và trước hết, bằng cách mở rộng bài thơ vào bối cảnh văn hóa, xã hội.
Thi Hoàng nổi tiếng hơn về trường ca(*). Nhưng trong thể loại thời thượng ấy, anh lại chưa hoàn toàn ra khỏi chất sử thi, cái cao cả, tính điển hình là những đặc tính của dòng văn chương “chính thống”, chúng kìm hãm thơ đương đại; tuy vậy, ở đó anh có nhiều cơ hội hơn để suy tư về lịch sử.
Sáng lên trong khoảng trống không tuyệt vời
Bông hoa sớm nay anh trao em rồi
Hoa chưa kịp nói nên lời
Hoàng hôn đã thở dài khe khẽ
Ẩn ra sự nóng sôi có một ông mặt trời
Nghiêm khắc và lạnh lùng quá thể
Em có còn tươi mát nữa không em?
Trường ca Thi Hoàng có những dẫn dắt đưa tới mối quan hệ thiên nhiên và văn hóa. Đó là quan tâm lâu đời của văn học và các khoa học như xã hội học, nhân chủng học. Thiên nhiên tạo ra những thay đổi ở con người, cảm giác vui sướng, sự buồn bã, khả năng cảm kích. Khuynh hướng sinh thái trong thơ ca thế giới những năm gần đây cũng bắt nguồn từ thơ về thiên nhiên, khởi đi từ những nhà thơ như Wordsworth, các truyền thống thơ ca Nhật Bản từ Basho. Sự phối hợp Đông và Tây ở nhiều nhà thơ hiện nay cũng xảy ra trên tấm thảm của thiên nhiên. Thơ Thi Hoàng kêu gọi sự tỉnh thức đối với sự vật và sự thức nhận đối với lề lối suy nghĩ. Giúp thoát khỏi lối nghĩ cứng cỏi, sự lầm đường, trạng thái mê lẫn, mời gọi sự buông thả, đến gần trạng thái không biết, trạng thái không chắc chắn, cảm giác tri ân.
Tôi đã ghé tai nghe miệng vết thương
Tưởng có tiếng thơ ngân lên ở đó
Thiên nhiên đã có sẵn ở đó rồi, vai trò của nhà thơ là chọn một góc đứng, một cách đi qua, một cách nhìn trong không gian ấy. Anh từng có cái nhìn chiếm lĩnh:
Chỉ mai đây nhà máy dựng xong thôi
Ý nghĩ thấm trong mồ hôi nhỏ giọt
Giữa không gian và thời gian hồi hộp
Một huy hoàng từ nền móng đang lên
Hầu hết các nhà thơ cùng thế hệ và hoàn cảnh như Thi Hoàng đều đã nghĩ và viết như thế. Đó là năm 1975 ở miền Bắc. Sau đó có người đã vượt qua giấc mơ công nghiệp hóa sơ khai, có người không. Thi Hoàng cố gắng vượt qua. Vì vậy, cảnh vật của thơ anh là cảnh vật nội tâm, chữ của Trần Phong Giao là tâm cảnh, buổi trưa ấy là buổi trưa Việt Nam.
Tiếng ve luồn qua trôn kim
Sự tưởng tượng cụ thể hóa, chứ không trừu tượng hóa, như phương Tây:
Sự vắng mặt của em đi xuyên qua anh
Như chỉ luồn qua kim
Your absence has gone through me
Like thread through a needle
(W.S. Merwin)
Bài Ngưỡng Mộ Hoa Sen của Thi Hoàng là một trường hợp khác. Lối nói trực tiếp hơn: sự cao quý của cảnh vật, cây cối, chính là nội dung của đời sống. Văn chương có thể không làm được nhiều, nhưng có thể mang người đọc lại gần với phẩm chất cao quý của vạn vật, nâng đỡ tinh thần họ lên đến một cấp độ mà năng lượng của trời đất chạm tới, và do đó, chuyển giao.
Ngưỡng Mộ Hoa Sen
Bùn non ngoan ngoan
Và đờ đẫn và im lìm và nhuần nhuyễn
Nước trong sáng cứ như muốn vùng vằng mà không dám
Bởi hương sen quá đỗi dịu dàng.
Hoa sen không định thơm
Không định thơm thì mới thơm như thế
Rất tự nhiên là ta nhớ mẹ
Mẹ quá xa rồi!
Để ta thành con cái của làn hương.
Ta ra điên hay trời bỗng khác thường
Không có hương sen thì trời sẽ sập
Không có hương sen thì ta thối nát
Song, đấy là điều không dễ có ai tin!
Thực ra các nhà thơ vẫn có quyền dùng cách nói tuyên bố, thậm chí kêu gọi, nhưng không dễ. Ở Thi Hoàng, cách nói cũ này khá tự nhiên, tuy vẫn dễ rơi vào cái sáo. Thơ đôi khi cho phép vượt qua, nhờ mối quan hệ giữa nhà thơ và người đọc, giữa người đọc và khung cảnh: bài thơ vượt ra ngoài cấu trúc ngôn ngữ. Con đường bài thơ Ngưỡng Mộ Hoa Sen dẫn ta đi là từ cõi vắng lặng tinh thần đến mối quan hệ thân mật. Cõi vắng lặng và những quan hệ nhân gian mới nhìn như thể là hai khái niệm đối lập. Trong tương tác bất ngờ, mà một số bài thơ có thể làm được, người đọc bỗng thấy mình di chuyển dễ dàng từ hai phía, vừa là sự tịch lặng thuần khiết, thiêng liêng, vừa là sự giao hòa gần gũi, giản dị, thường, thực, chạm được tay. Thật ra, Thi Hoàng cũng có những câu lắm dễ dãi, đọc câu trước đoán được câu sau:
Để được yêu thành thật cuộc đời thường
Yêu háo hức tới chừng như vật vã
Yêu bãi cát chiều long lanh vảy cá
Yêu đá khô khan cho núi thêm già
Tuy có thể được công chúng yêu thích. Mà công chúng nào chẳng thích sự trơn bóng. Thi Hoàng có nỗi phân vân giữa nhu cầu giao tiếp vốn phổ biến ở những người cùng thời và nhu cầu giữ kín thông tin. Nhu cầu của im lặng, các yếu tố khách quan như lịch sử, môi trường được anh đưa vào một cách rộng lượng, đặc biệt trong trường ca vì dung lượng của chúng, thực ra đã không ngăn anh giữ lại cho mình một thẩm mỹ bền bỉ, kín đáo, dành cho thơ trữ tình, giữa một bên là nhu cầu biểu hiện và một bên là chủ nghĩa tối thiểu. Cảm nhận của anh về tính đa nguyên của sự vật, tính đa cực của thế giới, giúp tạo ra những khoảng cách trong thơ, về mặt ngôn ngữ là sự xếp đặt phi cổ điển, các chữ và các câu bất ngờ, ra ngoài ngữ pháp. Sự liên tưởng là một quá trình linh cảm của tâm trí trong việc tạo dựng các ý tưởng và hình ảnh, các sự kiện và ngôn ngữ, tuy thường căn cứ vào những nguyên mẫu văn hóa (archetypes), nhưng thật ra vẫn cá nhân. Sự liên kết này, khá tự nhiên, ở Thi Hoàng có tính phim ảnh (associative cut), tức là mang tính ráp nối, cắt rời, chồng chéo, sắp xếp và sắp xếp lại, làm biến đổi một câu chuyện (story) thành một cốt truyện (plot).
Không định thơm thì mới thơm như thế
Những nghĩa khác của một chữ trong thơ. Nghĩa của chữ không phải là cố định. Nếu các lý thuyết tham chiếu (referential theory) đặt căn bản trên quan niệm rằng ngôn ngữ được dùng để chỉ một vật nhất định, thì lý thuyết hành vi (behavioral theory) cho rằng chữ chỉ có nghĩa như chúng có vì có người dùng chúng như thế, nói cách khác, nghĩa thay đổi. Thoạt nhìn, Thi Hoàng là người có ý tưởng độc đáo, và cách nói lên những ý tưởng ấy, một cách trực tiếp, mới lạ.
Lòng tốt đang cho con bú
Đó là khả năng gọi ra những nghĩa khác, tiềm ẩn, của ngôn ngữ tiếng Việt. Về nguyên tắc, số lượng các nghĩa “tiềm ẩn” ấy là vô tận. Tiếng Trưa là một bài thơ về thiên nhiên mà thực ra là về nghệ thuật. Không có nhân vật, hay có vẻ như không có nhân vật, không có cái tôi, gần như không có điểm nhìn, nhưng vì vậy mà điểm nhìn di chuyển khắp nơi, nhân vật có thể là nhiều người, một chàng trai, chắc thế, một cô gái đẹp như cái áo, hay là dậu thưa, hay trôn kim, hay tất cả chỉ là hoàn cảnh, là nghệ thuật sắp xếp.
Trời xanh nhìn thẳng vào tim
Chúng ta được dịp nhìn thẳng vào tâm trí của nhà thơ. Cái đẹp trở thành hiện thực. Hiện thực không có cứu cánh, cũng như số phận không có mục đích. Nghệ thuật làm cho hiện thực trở nên có cứu cánh, sự đau khổ trở nên có mục đích. Suy nghĩ, như chúng ta thường hiểu, dựa trên lý trí, không được tách rời kinh nghiệm sống. Sự xuất hiện của nhà thơ đã làm biến đổi không gian ấy, cảm xúc được ngân lên trong tâm hồn anh chính là cảm xúc của vũ trụ. Bài thơ trữ tình nhưng không hẳn là nói về một nhân vật. Tác giả như một cây đàn rung những nốt nhạc đã có sẵn trong trời đất. Một thôn quê Việt Nam, miền Bắc, hiện ra đầy đủ trong thứ âm nhạc ngân vang ấy. Sự chọn lựa nhiều lần giữa cách nói quen thuộc và cách nói mới cũng thể hiện sự phân vân của anh.
Sao chiều nay ta muốn tốt lên nhiều
Thiên nhiên ở với mình cao cả quá
Bài thơ đương thời thường bị ám ảnh bởi nỗi im lặng. Sự im lặng thanh sạch, hầu như không mang ý nghĩa, bởi vì ngôn ngữ trở nên bất lực ở khoảng trống rỗng. Bài thơ là điểm dừng của ngôn ngữ trong quá trình vận động của nó. Nói cách khác, thơ chính là bản thân ngôn ngữ, được bộc lộ trần truồng trước thực hữu. Bài thơ chính là hình thức của ý tưởng, hay nói như Rimbaud, là một ý tưởng được hát lên và được hiểu bởi ca sĩ. Những bài thơ hay bao giờ cũng có một giây phút đầy năng lượng ở đó tự nhiên và văn hóa hòa lẫn vào nhau, trở thành một.
Dù không gian có thể rạo rực hơn:
Trưa vàng cỏ biếc vườn xanh
Môi ai chín đỏ đầu cành phượng xưa
(Trần Dạ Từ)
Nhờ nhịp lục bát gấp. Trước, người ta thong dong hơn, mà vẫn đầy ắp lứa đôi:
Một buổi trưa không biết ở nơi nào,
Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao,
Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ
Mà đôi lứa đứng bên vườn tình tự.
(Huy Cận)
Hay thời kháng chiến:
Tiền nước trả em rồi. Nắng gắt
Đường xa xa mờ núi và mây
Buổi trưa của Quang Dũng thật buồn mà thật đẹp. Cảnh đâu có gì mà đẹp? Chỉ có đường xa, chỉ có núi mây và nắng lóa. Gian khổ thì đúng hơn. Nhưng tôi vẫn thấy đẹp. Thì ra cái đẹp của xã hội, của tình người. Chúng ta tiếc không khí ấy. Tiếc thì tiếc, nhà thơ bây giờ không có tâm trạng khấp khởi nữa: họ sâu sắc hơn, họ đa nghi hơn, họ kém tha thiết hơn thì phải. Vì xã hội nó nhạt đi, con người nó tầm thường đi, chứ đâu phải tại họ. Biết sao? Mỗi nhà thơ đều có một sợi dây cầm trên tay, đi theo con đường của mình, sự chọn lựa của mình, nhưng tới đâu chúng ta không biết. Cho đến một ngày, bạn dừng lại.
Thơ trữ tình là sự dừng lại.
Trước sau còn có vô cùng
Trước sau gì một số điều trong đời bạn cũng đứt đoạn: người thân, công việc, danh vọng, tự phụ, niềm tin. Trước sau gì bạn cũng đứng đó một mình, lột bỏ xiêm y bao phủ châu thân, bạn nhận ra rằng chỉ có bạn và thiên nhiên gặp lại nhau. Con người có bốn lần trần truồng: khi sinh ra, khi làm tình, khi bị hạ nhục, khi chết. Khi đời sống trở nên trống rỗng, và bạn không biết bắt đầu từ đâu, và chiến thắng và thất bại chỉ là ảo tưởng, và đúng và sai và bạn và thù, chỉ là ảo tưởng. Dưới sức nặng của các tình huống ấy, nếu may mắn, bạn sẽ nghe tiếng nói thì thầm, như tiếng sóng qua sông, hay tiếng buổi trưa ngào ngạt nắng. Và bạn đứng yên, cảm giác êm ả choáng ngợp, và lúc ấy bạn hòa tan vào thiên nhiên, chính bạn là thiên nhiên, chính bạn trở thành con đường.
N.Đ.T
(TCSH340/06-2017)
....................................................
(*) Nhà thơ Mai Văn Phấn:
“Nhà thơ Thi Hoàng khá mạnh về trường ca, đó là sở trường của ông. Với trường ca, ông mở đầu giai đoạn hướng nội, thiết lập cho thơ mình không gian riêng biệt với những phức điệu, phối bè hấp dẫn. Với hai trường ca lớn, “Ba phần tư trái đất” (Nxb. Hải Phòng, 1989) viết 1981 - 1984, “Gọi nhau qua vách núi” (Nxb. Quân đội nhân dân, 1996) viết năm 1987 - 1994 và một số trường ca “mini”, “Oản tù tì, ra…” in trong tập “Bóng ai gió tạt” (Nxb. Hội Nhà văn, 2001), “Bóng tối dưới chân đèn” in trong tập “Cộng sinh với những khoảng trống” (Nxb. Hội Nhà văn, 2005)..., Thi Hoàng đã dành được “đất” cho mình ở thể loại này. Khác với những trường ca mang tính sử thi đơn tuyến, có cốt truyện, trường ca của Thi Hoàng có cấu trúc hiện đại với đa giọng điệu. Các chương/ phần trong đó có thể đứng độc lập như một bài thơ dài, nhưng khi đặt trong “tổng phổ”, chúng được phối ngẫu, đan xen, bổ sung cho nhau, giống như cách hòa âm, phối khí trong giao hưởng.” (Maivanphan.vn).
MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.
FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.
BÍCH THU (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.
ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.
HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).
NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.
THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.
Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).
Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/ Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.
Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.
HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không
ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)
NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.
NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.
L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)
YÊN CHÂU (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.
BÙI ĐỨC VINH (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.