Thêm một thành tựu y học được xác lập tại Bệnh viện Trung ương Huế

09:17 22/10/2012

MINH KHUÊ - BẢO HÂN

Sáng ngày 5/9, đại diện các cơ quan báo chí đóng trên địa bàn đã có dịp chia vui với Bệnh viện Trung ương Huế (BVTƯ Huế) và gia đình bệnh nhân Hứa Cẩm Tú, người mà sau 10 lần mổ đến nỗi “người chị Tú không còn máu của chị Tú nữa” xuất viện. Thêm một thành tựu y học đã được xác lập và trở thành một y văn của Việt Nam và thế giới về ghép thận.

Gia đình chị Hứa Cẩm Tú tặng GS.TS Bùi Đức Phú bức tranh thêu “Tài đức, bản lĩnh”

Như đã biết ngày 6/12/2011 do không phát hiện được thận phải và thận trái của bệnh nhân Hứa Cẩm Tú dính với nhau nên Bệnh viện đa khoa Cần Thơ (BVĐK) đã cắt nhầm. Đây là sự cố hy hữu “không xảy ra nơi này cũng sẽ xảy ra nơi khác” nên sau khi nhận được sự chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến, đoàn chuyên gia của BVTƯ Huế, nơi trước đó đã tự mình ghép tim thành công cho bệnh nhân Lê Mậu Đức đã có mặt và thống nhất lãnh đạo y tế Cần Thơ phương án điều trị và ghép thận cho bệnh nhân Hứa Cẩm Tú.

Trong 6 tháng điều trị tại BVTƯ Huế (4/1 - 9/7/2012), theo báo cáo của GS.TS Bùi Đức Phú - Giám đốc BVTƯ Huế, bệnh nhân Hứa Cẩm Tú được lọc máu tổng cộng 71 lần và điều trị bảo tồn nội khoa như điều trị tăng huyết áp, điều trị thiếu máu, rối loạn nước, điện giải, vitamin và các điều trị khác.

Tình trạng bệnh nhân qua thời gian điều trị: Huyết áp tạm ổn định, dao động từ 120/80 mmHg đến 150/100 mmHg, mạch từ 80 - 90 lần/phút, tình trạng thiếu máu cải thiện tốt với Hb đạt mục tiêu từ 11 - 12 g/dL. Các chỉ số sinh hóa đều ổn định. Không có tình trạng thừa dịch. Không có tình trạng nhiễm trùng.

Tuy nhiên, do chưa thể ghép thận được vì yếu tố miễn dịch, bệnh nhân rất nhớ nhà nên bệnh nhân xin về thăm nhà hai tuần từ ngày 20/4 với sự đưa đón và tiếp tục chạy thận tại BVĐK Cần Thơ. Bệnh nhân trở lại BVTƯ Huế tiếp tục điều trị theo đúng phác đồ và tiếp tục chờ đợi vì kết quả xét nghiệm miễn dịch chưa cho phép ghép thận.

Do điều trị dài ngày chưa ghép được, lo lắng về việc gia đình, mặc dù được Ban Giám đốc BVTƯ Huế và các nhân viên trong khoa động viên, an ủi nhưng tinh thần bệnh nhân vẫn không ổn định. Ngày 30/6/2012, sau khi nhận được tin lốc thiệt hại nặng cho gia đình ở Cần Thơ, bệnh nhân Hứa Cẩm Tú đột ngột lên cơn phù phổi cấp.

Trước tình trạng bệnh nhân bị tử vong đe dọa, Bệnh viện đã quyết định chuyển Hứa Cẩm Tú lên Khoa hồi sức cấp cứu, áp dụng phác đồ điều trị tích cực bao gồm thở máy áp lực dương, hạ huyết áp, chạy thận nhân tạo cấp, liệu pháp kháng sinh. Trong 24 giờ đầu tình trạng phù phổi cấp vẫn còn nặng, Giám đốc BVTƯ Huế - GS.TS Bùi Đức Phú quyết định triệu tập khẩn cấp Hội đồng ghép tạng và các chuyên khoa liên quan tiến hành hội chẩn thống nhất phương án điều trị (lúc này tình huống xấu nhất cũng đã được nghĩ đến).

Sau một tuần nỗ lực cấp cứu, đến ngày 7/7/2012 tình trạng bệnh nhân đã dần dần ổn định. Bệnh nhân được rút nội khí quản, phổi không viêm, yếu tố đông máu có rối loạn mức độ vừa. Bệnh nhân được chuẩn bị để ghép thận cấp cứu vì nếu để chậm hơn nữa, nguy cơ tái xuất hiện phù phổi cấp và chắc chắn là vượt khả năng điều trị. Nhận thông báo, BVĐK Cần Thơ đưa người hiến thận ra Huế để làm các xét nghiệm đánh giá mức độ tương hợp.

Đề cập về quá trình chuẩn bị và ghép thận, GS.TS Bùi Đức Phú cho biết:

- Có 5 người tình nguyện hiến thận cho bệnh nhân Hứa Cẩm Tú, các xét nghiệm sơ bộ loại trừ 3 người cho do không đạt các tiêu chuẩn người cho thận. Hai người cho còn lại được BVĐK Cần Thơ giới thiệu ra Huế để làm xét nghiệm miễn dịch đánh giá mức độ tương hợp về miễn dịch và sàng lọc các bệnh kèm theo. 

Bệnh nhân và người hiến thận được làm các xét nghiệm theo quy trình chuẩn bị ghép thận của Hội đồng ghép tạng quốc gia. Riêng về phương diện miễn dịch, phản ứng tiền mẫn cảm của bệnh nhân Hứa Cẩm Tú có kết quả dương tính nhiều lần (xét nghiệm tiền mẫn cảm đã đươc thực hiện 1 lần/ tháng, tổng cộng 7 lần) vì bệnh nhân được truyền 1050 ml máu trong mổ cắt thận tại Cần Thơ nên không ghép được do nguy cơ thải ghép sau mổ rất cao.

Tuy nhiên, mức độ dương tính của tiền mẫn cảm giảm dần theo thời gian từ 72% vào tháng 2/2012 giảm dần còn 25% vào ngày 28/6/2012.

Qua phân tích các chỉ số về miễn dịch (tương hợp HLA giữa người cho và người nhận, phản ứng đọ chéo âm tính, không tồn tại kháng thể kháng HLA của người cho thận…). Hội đồng ghép tạng BVTƯ Huế đi đến thống nhất xét chọn người cho thận và hoàn tất đầy đủ các xét nghiệm theo đúng quy trình ghép thận quốc gia, lên kế hoạch ghép thận cho bệnh nhân ngay sau khi điều trị xong cơn phù phổi cấp.

Và đúng 7 giờ 30 ngày 10/7/2012 tại Trung tâm Tim mạch, ca mổ được tiến hành dưới sự chỉ đạo và trực tiếp phẫu thuật ghép thận của GS.TS Bùi Đức Phú và Hội đồng ghép tạng BVTƯ Huế.

Thận trái người cho được lấy và rửa thận theo đúng quy trình. Sau đó quả thận được ghép cho Bệnh nhân Hứa Cẩm Tú ỏ vị trí hố chậu phải. Ca mổ diễn ra thuận lợi, nước tiểu có ngay sau khi ghép xong, các mạch máu: tĩnh mạch thận - tĩnh mạch chậu ngoài (kiểu tận bên) và động mạch thận - động mạch chậu trong (kiêu tận-tận). Cuộc mổ kết thúc lúc 11giờ 30 cùng ngày.

Tuy vậy, sau mổ hai giờ nước tiểu ít dần, lúc 13g30 kíp phẫu thuật quyết định mổ lại vì chưa xác định được nguyên nhân do thải ghép tối cấp hay do lưu lượng máu qua thận ghép không đầy đủ. Khi mổ lại thấy thận vẫn hồng, động mạch thận vẫn đập nhưng hơi bị co thắt, nên kíp phẫu thuật quyết định cắt hệ giao cảm quanh động mạch thận và cắm lại động mạch thận với động mạch chậu ngoài kiểu tận - bên, đồng thời cho áp dụng phác đồ chống thải ghép tích cực. Cuộc mổ lần hai kết thúc lúc 16giờ 30, bệnh nhân vẫn không có nước tiểu, nhưng sau đó một giờ nước tiểu bắt đầu ra nhiều, đến 7g sáng ngày 11/7 đã ra 5 lít nước tiểu, các thông số xét nghiệm bình thưòng, bệnh nhân tự thở và bắt đầu ăn nhẹ.

Tưởng ca mổ chỉ dừng lại ngang đó nhưng vì tình trạng chảy máu khoang sau phúc mạc dai dẳng do rối loạn yếu tố đông máu, bóc tách khoang sau phúc mạc bị dính do lần mổ cắt thận ở Cần Thơ nên bệnh nhân Hứa Cẩm Tú phải mổ lại thêm 8 lần nữa (11/7 - 10/8). Trong 8 lần mổ này, theo GS.TS Bùi Đức Phú: “Chúng tôi đã áp dụng kể cả dùng keo sinh học nhưng không hiệu quả, cuối cùng chúng tôi phải sử dụng biện pháp tạo phản ứng viêm khoang sau phúc mạc bằng cách chèn gạc, không đóng vết mổ, băng kín vô trùng và sau 48 giờ thì mổ lại kiểm tra khoang sau phúc mạc thấy không còn chảy máu, rửa sạch và đóng vết mổ. Nguy cơ nhiễm trùng của biện pháp này rất cao nhưng nhờ kỹ thuật mổ vô trùng tuyệt đối, và liệu pháp kháng sinh phù hợp nên tình trạng nhiễm trùng đã không xảy ra”.

Vấn đề chuyền máu và điều chỉnh rối loạn đông máu cho bệnh nhân Hứa Cẩm Tú cũng hết sức phức tạp. GS.TS Bùi Đức Phú cho biết: “Chúng tôi đã chuyền tổng cộng: 10,4 lít hồng cầu rửa; tiểu cầu khối đậm đặc (filtre lọc BC): 31 đơn vị; huyết tương tủa lạnh: 17 đơn vị; huyết tương tươi: 7 đơn vị.

Để hạn chế nguy cơ thải ghép thể dịch, ngân hàng máu phải huy động nhóm người cho máu đặc biệt như là nam giới, chưa chuyền máu lần nào, không mắc các bệnh mạn tính và luôn luôn trong tình trạng sẵn sàng cung ứng ngay khi có nhu cầu. Trao đổi với các chuyên gia tại các Trung tâm ghép tại Pháp và Bỉ qua điện thoại và email để có thêm kinh nghiệm trong việc điều trị rối loạn đông máu, chúng tôi quyết định truyền khối lượng lớn tiểu cầu và liên tục trong và sau lần mổ thứ 9 để duy trì tiểu cầu luôn trên ngưỡng 150.000. Đồng thời còn dùng cả máu tươi lọc bạch cầu (750 ml) cung cấp hồng cầu và tiểu cầu. Phương thức này không có trong phác đồ ghép thận kinh điển vì dễ có nguy cơ thải ghép thể dịch. Tuy vậy, song song với việc áp dụng phác đồ chuyền máu trên, kết hợp với kỹ thuật cầm máu ngoại khoa, tình trạng chảy máu và rối loạn đông máu đã được kiểm soát.

Bên cạnh việc điều trị thải ghép theo phác đồ kinh điển, vấn đề dự phòng phản ứng thải ghép thể dịch bằng cách dùng Immunoglobulin sau khi chuyền các chế phẩm máu 3 - 4 tuần, lần đầu tiên được chúng tôi sử dụng cho bệnh nhân Hứa Cẩm Tú do bệnh nhân đã được chuyền quá nhiều máu và các thành phần máu. Ngoài ra, bệnh nhân còn xuất hiện đái tháo đường sau ghép thận do thuốc ức chế miễn dịch (corticoid, ức chế calcineurine) cũng đã được xử trí lúc đầu bằng Insulin, sau đó chuyển qua thuốc viên hạ đường huyết, đồng thời điều chỉnh giảm liều corticoid nhanh hơn (sẽ đánh giá lại việc tiếp tục corticoid vào 6 tháng sau ghép). Hiện tại đường máu của bệnh nhân được kiểm soát tốt với thuốc viên hạ đường huyết”.

Kể từ lần mổ cuối cùng (10/8/2012) đến nay, bệnh nhân Hứa Cẩm Tú hoàn toàn ổn định, vết mổ khô, không còn tụ máu khoang sau phúc mạc, không nhiễm trùng, không còn rối loạn đông máu, không xuất hiện hiện tượng thải ghép, chức năng thận tốt. Bệnh nhân đi lại, ăn uống và tiểu tiện bình thường. Ngày 5/9/2012 bệnh nhân Hứa Cẩm Tú xuất viện. Trước khi trở về Cần Thơ, chị Hứa Cẩm Tú xúc động nói: “Từ đáy lòng mình tôi xin bày tỏ sự biết ơn đối với BVTƯ Huế vì đã sinh tôi lần thứ hai.”

Từ thành công này, thay mặt Hội đồng ghép tạng BVTƯ Huế, GS.TS Bùi Đức Phú rút ra kết luận:

1. Đây là sự cố y khoa lần thứ hai tại Việt Nam. Lần đầu cách đây 25 năm, bệnh nhân được chuyển ra nước ngoài ghép thận nhưng thất bại và bệnh nhân tử vong.

2. Quá trình điều trị trong giai đoạn chờ ghép tại bệnh viện rất phức tạp kéo dài 6 tháng (từ 04/01/2012 đến 09/7/2012) do rối loạn nhiều cơ quan: Rối loạn cơ quan tạo máu, rối loạn cơ quan bài tiết nước tiểu, rối loạn cơ quan nội tiết, phản ứng tiền mẫn cảm dương tính cao do đã truyền 1 lít máu trong quá trình cắt thận, tâm thần không ổn định, rối loạn tuần hoàn và hô hấp: bệnh nhân lên cơn phù phổi cấp.

3. Quá trình tìm người cho thích hợp để ghép thận khó khăn:

Có 5 người tình nguyện hiến thận, nhưng chỉ có 2 người cho tương đối phù hợp được BV Cần Thơ giới thiệu ra BVTƯ Huế để làm xét nghiệm miễn dịch đánh giá mức độ tương hợp về miễn dịch và sàng lọc các bệnh kèm theo. 

Do phản ứng tiền mẫn cảm của bệnh nhân Hứa Cẩm Tú có kết quả dương tính cao nhưng sau 6 tháng thì mức độ giảm nhiều, đồng thời các chỉ số về miễn dịch (tương hợp HLA giữa người cho và người nhận, phản ứng đọ chéo âm tính, không tồn tại kháng thể kháng HLA của người cho thận…). Hội đồng ghép tạng BVTƯ Huế đi đến thống nhất xét chọn người cho thận phù hợp và hoàn tất đầy đủ các xét nghiệm theo đúng quy trình ghép thận quốc gia, lên kế hoạch ghép thận cho bệnh nhân vào ngày 10/7/2012 sau 10 ngày điều trị tích cực phù phổi cấp.

4. Phẫu thuật phức tạp phải mổ tổng cộng 10 lần, giành giật lại mạng sống cho bệnh nhân.

Ca ghép thận của bệnh nhân Hứa Cẩm Tú quá khó và phức tạp, phải mổ đi mổ lại nhiều lần, nguy cơ nhiễm trùng rất cao. Bệnh nhân đã được mổ nội soi cắt thận có bơm hơi khoang sau phúc mạc, đã tạo sự dính gây khó khăn cho lần mổ ghép thận. Điều này trở thành yếu tố dễ gây chảy máu khoang sau phúc mạc do phải bóc tách. Trong quá trình chờ ghép thận, bệnh nhân lại bị rối loạn nội tiết, rối loạn yếu tố đông máu và lên cơn phù phổi cấp, dễ dẫn đến nhiều biến chứng sau mổ như chảy máu, suy hô hấp, nhiễm trùng…

Các kỹ thuật cầm máu ngoại khoa tiên tiến đều được áp dụng, kỹ thuật vô trùng được tuân thủ nghiêm ngặt trong 10 lần mổ cũng như giai đoạn hậu phẫu và quá trình chuẩn bị phẫu thuật. Lần đầu tiên áp dụng ở Việt Nam, phác đồ mới điều trị rối loạn đông máu và phác đồ dự phòng thải ghép thể dịch một cách an toàn và hiệu quả.

5. Sự chỉ đạo phối kết hợp huy động mọi nguồn lực và thể hiện y đức cao cả của tập thể thầy thuốc:

Bộ trưởng Bộ Y tế chỉ đạo trực tiếp; sự quan tâm và thống nhất cao của UBND TP Cần Thơ, sự phối hợp nhịp nhàng của Sở Y tế Cần Thơ, BVĐK Cần thơ và BVTƯ Huế; sự chia sẻ đầy trách nhiệm của đội ngũ cán bộ y tế, thông tin truyền thông, trình độ năng lực của các thầy thuốc Việt Nam trong lĩnh vực ghép tạng đã phát triển; trong quá trình điều trị cho bệnh nhân Hứa Cẩm Tú, mặc dù kéo dài, gặp rất nhiều tình huống hết sức phức tạp, có lúc tưởng chừng không cứu được, nhưng với quyết tâm của một tập thể có trình độ chuyên môn cao, được tổ chức hoàn hảo và y đức sáng ngời đã làm nên điều kỳ diệu mang lại cuộc sống quý giá cho chị Hứa Cẩm Tú.
 

Ông Nguyễn Văn Nghĩa - PGĐ BVĐK Cần Thơ:  
Chị Tú xuất viện là một điều thần kỳ đối với y khoa Việt Nam. Dĩ nhiên sau khi ra viện chị Tú còn phải tiếp tục được điều trị tại BVĐK Cần Thơ theo phác đồ của BVTƯ Huế và còn phải trải qua nhiều công đoạn phức tạp nữa, nhưng quả thật sức khỏe của chị Tú có được đến thời điểm này là một điều thần kỳ.


M.K - B.H
(SH284/10-12)









 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...

  • Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.

  • 1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.

  • Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.

  • Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).

  • *Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.

  • Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...

  • Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.

  • I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.

  • Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.

  • Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.

  • I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.

  • Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.

  • Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.

  • Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...

  • Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.

  • Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

  • Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.

  • Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...

  • Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.