Thể phách cho những hành trình

14:36 24/01/2018

LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

Cuộc sống khả hữu luôn thử thách tôi và bạn trong bất kỳ tồn tại không gian và thời gian nào. Dĩ nhiên, suy nghĩ vậy sẽ cản trở sự vượt qua giới hạn cần phải có của bản thân.

Giới hạn do chính chúng ta tạo ra, phụ thuộc chủ yếu vào ý thức chủ quan cá nhân. Vì thế Albert Einstein nói: “Khi chúng ta chấp nhận giới hạn của mình, chúng ta đã vượt qua nó. Chúng ta thấy cái bóng của chính mình, thấy hình hài thực thụ của cái con người thân xác và cả tâm hồn không bị đóng băng. Trong hành trình khám phá cái bên trong lẫn cái bên ngoài, tôi thấy thật sự cần thiết phải ngồi lại chiêm nghiệm, phải phục vụ sự viết về những gì đã gắn bó, phô bày cái đẹp, cái khổ, hạnh phúc, mất mát, chân lý… đều có lý do để gọi tên.

Tôi vẫn thường muốn chép lại những hồi ức đã ngủ quên, cả trạng huống, diễn tiến tinh thần lúc tôi điền dã những vùng đất đi qua. Sự lục lại, truy vấn trí nhớ có thể không phục hồi nguyên trạng nhưng chí ít cũng gìn giữ những chi tiết có tính mộc bản của hồi ức. Khởi nguồn của hồi ức có lẽ đến từ sự chủ quan về cái đẹp (beauty). Con người tri giác hẳn đều cảm nhận sự hiện diện của cái đẹp, nguồn gốc hứng khởi, tô điểm cho thế giới sắc màu. Một câu đố giữa cuộc đời về cái đẹp, ý nghĩa tồn tại của nó, nếu săn lùng, ngưỡng vọng, bạn và tôi sẽ có câu trả lời theo cách của mình. Trong “vương quốc của cảm giác” (như lời Hegel), tôi mơ hồ trong hành trình “đi tìm thời gian đã mất” của hoài niệm, của lãng quên, của suy tàn. Cái đẹp luôn tồn tại trong thiên nhiên rộng lớn của hóa công và thế giới tinh thần nhân loại, trong cảm xúc với ý chí cá nhân. Nhận định về cái đẹp cũng đi vào sự hài hòa giữa lằn ranh lý trí với tưởng tượng. Cái đẹp tự thân đã dâng hiến cho chúng ta, hãy truy vấn và khắc ký nó.

Trong diễn biến đời sống, mỗi người ý thức được về bổn phận của mình trong cuộc sống này, cần gì và làm như thế nào, hiệu quả ra sao phải được xác định và nhận thức đúng. Có lẽ sẽ chẳng ai tự tin quá nhiều để thách thức mọi giới hạn, dù là trong lĩnh vực sở trường của mình. Nhưng chắc rằng chúng ta thường nghĩ chẳng thể làm được việc đó khi phải đối mặt những điều mới mẻ, vượt ngoài sự hiểu biết và khả năng của mình. Qua bút ký văn học, tôi đã dấn bước “tiến vào những điều không thể”, nhận diện được giới hạn của mình trên hành trình đi và sự ở lại mang tính trói buộc của không gian. Đi bằng tư tưởng rạo rực khai phóng và thân xác thì ở lại bồi đắp, tu dưỡng, giữ gìn. Đi bằng phần thân nhưng phần tâm vẫn ở lại neo đậu quê hương. “Đi - như là ở lại”, một ý thơ của nhà thơ Inrasara, cho nỗi trầm tư, là “một hơi gió xâu dài thế kỷ” mà đôi lúc, chúng ta đã được sống lại từ cơn phóng tưởng.

Và một cái “cần” khác trên hành trình “sự cô độc bận rộn”, nghĩ như Voltaire là “niềm hạnh phúc to lớn nhất”, mặc sức lôi kéo, đẩy đây đưa bản thân tìm tòi cái biết. Đôi chân tôi bước trên mọi nẻo đường, luôn bề bộn với những kế hoạch hành trình chinh phục những vùng đất mới. Tôi gọi mình là lữ khách, gọi chiếc xe nghìn dặm là ngựa. Lữ khách một mình lang thang trên cao nguyên, trên đồng xanh, trên non cao, trên những phế tích kiếm tìm giấc mơ thất lạc. Khi ấy, tôi không cô độc nếu tôi biết làm bạn với chính mình để ghi lại đôi điều gì đó đã trải qua.

Qua bút ký, tôi muốn chắt nhặt từ căn cước những vùng đất những cái riêng, cốt lõi cần lưu giữ như bản nghĩa của văn hóa chính là sự gieo trồng tinh thần (cultus - latinh), và là sự tiếp diễn của quá trình kế thừa truyền thống. Sự gieo trồng tinh thần ấy xuất phát từ sự mê hoặc của vùng văn hóa tôi đã đi qua. Mượn lời mình để dẫn dụ về cái đã/sẽ biến mất như quy luật tất nhiên, để gìn giữ trong trái tim và tâm hồn bản sắc theo cách hiểu của tôi. Người cầm bút tức là người phụng sự văn hóa, người phụng sự văn hóa thật không đơn giản (nếu làm sai) như lời của Vương Dương Minh là “giết cả một đời”.

*

Và nữa, tôi cũng dành đôi lời lạm bàn về về yếu tính của thể loại bút ký văn học theo kiến giải, hiểu biết hạn hẹp của cá nhân mình. Nếu chữ giữ lại từ “ký” thì thể loại này có thể nói là cội nguồn, cái ban đầu của mong muốn chủ quan con người là chép lại cái đã diễn ra, mở đầu bằng những trang sử đậm chất hiện thực của thời cổ đại theo hình thức biên niên hoặc cương mục với những tên tuổi Đông - Tây như Tư Mã Thiên (Trung Quốc), Tacitius (Rome); đặt nền móng cho sự phát triển mạnh mẽ ở các thời đại sau… Ở nước ta, phải đến thời trung đại, thể ký theo cách hiểu nói trên xuất hiện trong nhiều trước tác của các chính trị gia, văn nhân muốn thu phóng sự hiểu biết của mình trong những áng văn bất hủ. Chúng mang tính trứ thuật cao và dưới tay bút của những Lê Quý Đôn, Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án, Lê Hữu Trác… cũng tạo thành một mảng bút ký cổ điển bằng văn xuôi chữ Hán, được hậu thế xem như các tác phẩm nghệ thuật, vì sự tương đồng với văn chương hiện đại.

Thế kỷ XX, bút ký văn học phát triển theo xu thế mới, hướng đến tính nghệ thuật và ở mức độ sâu sắc nhất là một tác phẩm nghệ thuật, có hình hài như hôm nay. Những thế hệ tiền bối, thế hệ tiếp nối như Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Bắc Sơn, Văn Cầm Hải… với những tác phẩm nền mẫu đậm đà, định hình cho quy phạm của thể loại bút ký văn học nguyên bản. Tiếp nối đó, hàng trăm cây bút trên văn đàn liên tục bổ sung đội ngũ và tác phẩm bút ký văn học hội tụ đủ chất và lượng, hầu khắp khắp ba miền, cho thấy sức sống bền bỉ và cuốn hút của thể loại này.

Sự xác tín về nội hàm của thể bút ký văn học nằm ở tính phi hư cấu (nonfiction) có thật sự cần thiết không, để qua đó nắm bắt được những chất liệu chính yếu, rằng hiện thực là nền tảng và sự thật là tiêu chí của bút ký. Dĩ nhiên, mọi sáng tác văn chương đều khởi nguồn từ hiện thực, thứ nguyên liệu không thể tách rời khỏi cảm thức sáng tạo, là mảnh đất màu mỡ cho những luống cày chữ nghĩa trung thành với hiện thực dù muốn ảo diệu, biến hóa thế nào đi chăng nữa. Hay nói cách khác, cuộc sống là mạch nguồn của văn chương. Thông qua thiên chức cao đẹp nhất của văn chương là đặc tính hư cấu (fiction), hiện thực được phản ánh lung linh và giàu màu sắc tưởng tượng. Thể bút ký văn học có cần phải đạt đến độ “tận trung với hiện thực”, trưng dẫn từ sự tiếp thu của năm giác quan, để mang đến sự tiếp nhận lộng lẫy về hiện thực đời sống. Nhưng lại nói dìm hết mọi khả năng hư cấu trong bút ký là điều bất khả, một cách để làm hoặc sáo rỗng hoặc khô cứng văn chương. Hoàng Phủ Ngọc Tường bàn đến “phẩm chất mỹ học” để thể hiện sự tồn tại cho phép của hư cấu trong tác phẩm của ông như một lao động nghệ thuật. Phạm Hổ với tư cách thi sĩ của mình lại cho bút ký chỗ dựa trung dung là “cảm xúc thơ, những suy nghĩ thơ”. Sự mở cửa cho tính hư cấu vào trong bút ký văn học được xem như một sự khác biệt, nghệ thuật hóa thuộc tính thô, nguyên sơ của chất liệu hiện thực nếu như chỉ dừng lại ở mức ký sự, ghi chép sự kiện, nhân vật. Cái khác biệt lớn nhất ở chỗ bút ký phản ánh hiện thực như những chứng từ thực lục ở hình dạng, nguyên do của lớp vỏ ngoài của hiện thực. Các thể loại văn chương khác (thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết) chạm sâu vào cõi thẳm của hiện thực, vào thế giới tâm thức đương chờ chực mở phơi.

Bút ký văn học cần thiết tính hàn lâm và bay bổng của ngôn ngữ, có chăng là thứ ngôn ngữ thi ca được trộn lẫn trong điều chân thật của cuộc sống. Maiakovsky nói: “Tôi biết sức mạnh của ngôn từ … ngôn từ là tướng của đạo quân sức mạnh con người”. Bút ký phải đề xuất được thể văn phóng khoáng, mạnh mẽ, sâu sắc, lối viết linh hoạt, lúc khoan lúc nhặt, có thể nhẹ như lông hồng mà cũng nặng tựa ngàn cân. Những tác phẩm bút ký có giá trị văn học ngoài đáp ứng các giá trị hiện thực được dung nạp, phải khai thác triệt để sức mạnh của ngôn ngữ, giá trị mỹ học, đặc tính nhân văn và hòa trộn nhiều thể loại được trích xuất như một bản hợp xướng ngôn ngữ, tạo nên lối viết liên văn bản đầy sức cuốn hút. Bút ký văn học chứa đựng lượng thông tin lớn, đa hàm nghĩa, uyên áo. Bạn đọc có thể tìm thấy triết học, dân tộc học, lịch sử, thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết… ở những thể phách được lưu dẫn vừa vặn trong bút ký. Tính chất hư cấu có mức độ, yếu tính ngôn ngữ, vấn đề xây dựng cương mục, tính bác học tạo nên sự khác biệt đẳng cấp giữa bút ký văn học và các thể loại khác (ký báo chí, ký chân dung, ghi chép, tản văn…).

Trong lối kể, người viết thường ở ngôi thứ nhất, nói cách khác cái tôi của người cầm bút trực diện xuất hiện với tư cách là người trong cuộc. Ngoài ra, sự phối hợp nhiều điểm nhìn trần thuật cho một số nhân vật khác để nhìn nhận hiện thực đa chiều kích hơn. Cấu trúc tuyến tính theo thời gian được sử dụng đan xen với cấu trúc cương mục nên tính chất tự do, phóng khoáng trong việc trình bày, sắp xếp các chi tiết, sự kiện có tính hệ thống và dụng ý nghệ thuật là những cái cần để tạo dựng hình hài bút ký văn học.

Lẽ nữa, tôi muốn nói đến việc trưng dẫn sự khác biệt giữa sự thật sự chính xác xem như một cách đọc hiểu bút ký văn học. Yêu cầu sự thật có thể đảm bảo nhưng tính chính xác tuyệt đối không phải lúc nào cũng được thỏa mãn. Quan điểm bút ký văn học không đòi hỏi tính xác thực ở mức tuyệt đối, tính cấp bách về thời sự như dạng bút ký báo chí được hiểu theo nghĩa này. Dù gì chúng ta, những kẻ hiện hữu trong đời sống chật hẹp này nên chăng đuổi bắt một bầu trời khác ngoài cơn mơ đến đi sau mỗi giấc ngủ, là bầu trời của nắng gió, của cái đẹp, của những điều cần chiêm nghiệm về những vùng đất đã thức dậy hay đương mơ về một quá khứ xa xăm nào đó.

L.V.T.G  
(SHSDB27/12-2017)


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI KIM LAN  
    (Đôi điều về Con Đường Mẹ Đi)

    Trước tiên, khi thử nhìn lại con đường của Mẹ - Đạo Mẫu, tôi lại muốn đánh dấu chéo gạch bỏ những khái niệm “Đạo Mẫu”, Tiên Thánh Liễu Hạnh, Thánh Cô và một loạt những nhân vật được tôn sùng cho sức mạnh, thế lực hàng đầu của nữ giới Việt, thường được hóa thánh, sùng thượng một thời.

  • THÁI DOÃN HIỂU

    Thân sinh của Cao Bá Quát là ông đồ Cao Hữu Chiếu - một danh nho tuy không đỗ đạt gì. Ông hướng con cái vào đường khoa cử với rất nhiều kỳ vọng.

  • ANNIE FINCH  

    Chúng tôi khát khao cái đẹp thi ca, và chúng tôi không e dè né tránh những nguồn mạch nuôi dưỡng chúng tôi. Chúng tôi sẵn sàng với chủ nghĩa Toàn thể hình thức (omniformalism), cho một thi pháp phong phú và mở rộng, giải phóng khỏi những doanh trại của những cuộc chiến thi ca đã chết rấp.

  • Chuyên luận THƠ NHƯ LÀ MỸ HỌC CỦA CÁI KHÁC (Nxb. Hội Nhà văn - Song Thuy bookstore, 2012, 458tr) gồm ba phần: Phần một: THƠ NHƯ LÀ MỸ HỌC CỦA CÁI KHÁC, Phần hai: CHÂN TRẦN ĐẾN CÁI KHÁC, Phần ba: NHỮNG NẺO ĐƯỜNG CỦA CÁI KHÁC.

  • NGUYỄN QUANG HUY

    (Khảo sát qua trường hợp "Người sông mê" qua cái nhìn của lí thuyết Cổ mẫu)

  • NGUYỄN HỮU TẤN

    Trong buổi lễ mừng thọ thất tuần, Sigmun Freud đã từng phát biểu: “Trước tôi, các thi sĩ và triết gia đã sớm phát hiện ra vô thức, còn tôi chẳng qua cũng chỉ khám phá ra những phương pháp khoa học để nghiên cứu vô thức mà thôi”.

  • Tóm lược bài nói chuyện trao đổi một số vấn đề về tình hình văn học Xô viết những năm 80, đặc biệt là sau Đại hội 27 của GSTS V. Xmirnốp trong chuyến thăm Huế với Chi hội Nhà văn Bình Trị Thiên của đoàn cán bộ Học viện văn học Gorki (Liên Xô cũ) do nhà thơ Valentin Xôrôkin, phó Giám đốc Học viện và GSTS Vladimia Xmirnốp đã sang Việt Nam giảng dạy tại trường Viết văn Nguyễn Du năm 1987.

  • Tỳ kheo THÍCH CHƠN THIỆN

    Theo Spaulding - The “New Rationlism”, New York, Henry Holt and Conpany, 1918, pp. 106 - 107 -, Aristotle nêu lên ba nguyên lý cơ bản của tư duy:

  • TRẦN NGUYÊN HÀO

    Năm 1987, tổ chức Giáo dục - Khoa học - Văn hóa của Liên hiệp quốc, UNESCO trong cuộc họp Đại hội đồng lần thứ 24 (tại Paris từ 20/10 đến 20/11) đã ra Nghị quyết phong tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh danh hiệu kép: “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn”.

  • ĐỖ HẢI NINH

    Quan sát hành trình Thơ mới, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, vào đầu thập kỷ 40 của thế kỷ XX, Thơ mới bắt đầu có dấu hiệu chững lại, thậm chí khủng hoảng về cảm hứng và thi pháp.

  • JU. LOTMAN

    Từ “biểu tượng” (symbol, còn được dịch là tượng trưng, biểu trưng, phù hiệu, kí hiệu) là một trong những từ nhiều nghĩa nhất trong hệ thống các khoa học về kí hiệu(1).

  • PHẠM TẤN HẦU

    Trong bản tham luận về mảng thơ trên trang viết đầu tay của Tạp chí Sông Hương do anh Hoàng Dũng trình bày tôi thấy có chủ ý nói đến tính khuynh hướng. Tuy nhiên, vấn đề này chưa được đặt ra một cách chặt chẽ, sâu sắc. Theo tôi, nếu hướng cuộc thảo luận đến một vấn đề như vậy chắc sẽ đem đến cho những người viết trẻ nhiều điều bổ ích hơn.

  • ĐỖ VĂN HIỂU

    Tóm tắt
    Trước tình trạng môi trường toàn cầu đang ngày một xấu đi, giữa thập niên 90 của thế kỷ 20 Phê bình sinh thái đã ra đời với sứ mệnh cao cả là phân tích chỉ ra căn nguyên văn hóa tư tưởng dẫn đến nguy cơ sinh thái, nghiên cứu quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên.

  • LƯỜNG TÚ TUẤN

    Việc lý luận văn học thống nhất coi “ngôn ngữ là chất liệu của văn học” đã không vì thế mà dành cho cái chất liệu ấy một vị trí xứng đáng trong những luận thuyết và “diễn giải” của mình.

  • PHAN TUẤN ANH

    “Chẳng ai đi dưới bóng hàng cọ mà lại không hề hấn gì”… Ở đời, trong cuộc chơi, cả hai bên đều phải đi qua dưới bóng hàng cọ”.
                   (Nguyễn Xuân Khánh) [2,806]

  • TRẦN THIỆN KHANH

    “Mai kia, những cái tầm thường, mực thước sẽ mất đi, còn lại chút gì đáng kể của thời này, đó là Hàn Mạc Tử.”
                                (Chế Lan Viên)

  • CARSON MCCULLERS

    Khi tôi là một đứa bé chừng bốn tuổi, tôi cùng người bảo mẫu của mình đi ngang qua một tu viện.

  • MANU JOSEPH

    Xét về quan điểm và màu tóc của 50 nhà văn được lắp ghép cho một hội nghị kì quặc ở Edinburgh, thì cái giáo đoàn đó có thể gọi là “50 Sắc Xám.”  Tuy nhiên trong suốt năm ngày hội nghị, khởi đầu từ ngày 17 tháng Tám, hầu hết các nhà văn nhìn nhận rằng họ bị đẩy lui bởi loại sách kém học thức, loại sách bán chạy hơn tất cả các công trình của họ cộng lại.

  • NGUYỄN HỒNG TRÂN  

    …Minh triết là sự làm sáng tỏ một cách khôn khéo những chuyện trong trời đất có liên quan đến cuộc sống vật chất và tinh thần của con người trong xã hội một cách chân thực, rộng rãi, sâu sắc và nó có những năng lượng tiềm tàng rất quý giá đối với sự phát triển tâm đức và trí tuệ con người…

  • WALTER BENJAMIN 

    (Trích trong tác phẩm Illuminations do Hannah Arendt biên tập và đề tựa, 1968, bản dịch từ tiếng Đức của Harry Zohn)