TRẦN QUANG MIỄN
Có lẽ, cho đến bây giờ bạn bè, người quen biết vẫn thường gọi tôi:
- Ê Thành Cát Tư Hãn!
Vai diễn đó đã thực sự tạo sự khác biệt giữa tôi và bạn bè cùng trang lứa lớp Đệ Tam ban C trường Quốc Học.
Ảnh: internet
Đó là năm 1963 tôi từ trường trung học Hàm Nghi chuyển qua trường Quốc học lớp Đệ Tam ban C. Bấy giờ thầy Đinh Quy làm hiệu trưởng, thầy Văn Đình Hy làm tổng giám thị - trường có tổ chức biểu diễn văn nghệ, kỷ niệm ngày thành lập trường ngày 26 tháng 10. Tôi cùng vài người bạn được mời tham dự buổi họp ở hội trường để bàn việc tìm người vào vai đóng vở kịch: Thành Cát Tư Hãn của Vũ Khắc Khoan (sinh ra ở Hà Nội ngày 27/02/1917 và đã mất ngày 12 tháng 9 năm 1986). Ông là một kịch tác gia nổi tiếng ở miền Nam lúc bấy giờ với những tác phẩm “Thằng Cuội ngồi gốc cây đa” năm 1948; “Thành Cát Tư Hãn” và “Giao thừa” năm 1949. Sau năm 1954 ông di cư vào Nam, ông đóng góp bài vở cho Tự do, Quan điểm, rồi sau đó làm chủ nhiệm Nguyệt san Vấn đề [Theo Wikipedia.org]. Các anh Xuân Thi, Uyên Thi và Tuyết Lộc(1) (Tuyết Lộc học lớp đệ nhất Quốc Học lúc bấy giờ. Gần đây mới biết Nguyễn Tuyết Lộc cũng là cộng tác viên của Tạp chí Sông Hương) thuyết trình vở kịch rồi tìm người đóng các vai, có nhiều anh ở lớp trên đưa tay xung phong đóng vai Thành Cát Tư Hãn; Xuân Thi, Uyên Thi, Tuyết Lộc nắn óc suy nghĩ ngậm ngự, cuối cùng Tuyết Lộc lắc đầu, rồi nhìn xuống hàng ghế phía dưới chỉ đích danh tôi. Vậy là cả Xuân- Uyên đồng ý.
Ngoài vai Thành Cát Tư Hãn, các vai khác đi qua rất nhanh, công chúa Tây Hạ đương nhiên là Tuyết Lộc phụ trách, Sơn Ca: Xuân Thi, ông già Tây Hạ: Uyên Thi; Thiếu phụ Tây Hạ hình như chọn một cô cùng lớp với Tuyết Lộc, các vai Dương Bân, Thúc Bột Đào tôi đều quên tên.
Khi các vai đầy đủ được chọn, bắt đầu tập dượt về đối thoại - Hai vai chính Thành Cát Tư Hãn và Giang Minh tập nhiều nhất, tất cả đều phải luyện giọng nói miền Bắc (giả giọng Bắc) Tuyết Lộc đem đến một máy cát sét nhỏ thâu băng, thả ra nghe lại, Xuân Thi và Uyên Thi, Tuyết Lộc nghe lại, góp ý để có được một sự diễn tả lời nói sao cho thật đúng với tâm trạng của Thành Cát Tư Hãn, từng vai đều làm như thế. Thời gian có vẻ hạn hẹp, máy cát- sét chạy tới chạy lui nhiều lần cho thuộc bài; xong lớp này đến lớp khác, tập riêng từng cá nhân, ráp chung các vai có liên quan, hoàn tất xong đối thoại, mới đưa nhau lên sân khấu, tập các động tác, di chuyển các nhân vật v.v.
Cho đến bây giờ tôi vẫn còn ngạc nhiên, không biết vì sao Tuyết Lộc chọn tôi vào vai Thành Cát Tư Hãn. Trước đó vài năm, tôi có đóng vai vua Duy Tân, do gia đình Phật tử Thừa Thiên Huế tổ chức Đại nhạc hội tại Phu Văn Lâu - gia đình Phật tử An Hòa đóng góp vở kịch thơ do anh Chiêm Nam viết, tôi không nhớ tên. Tôi có người bạn anh giáo Nguyễn Bá Chức đi đâu cũng khoe với bạn bè: “Miễn đóng vai vua Duy Tân, Bà Vàng (bà Mai Thị Vàng vợ vua Duy Tân bấy giờ hồi hương ở nhà cháu gọi bằng cô ở Kim Long, Huế) ngồi dưới cảm động chảy nước mắt”. Có thể Tuyết Lộc có xem vở kịch này và chỉ định tôi? Tuyết Lộc thì đã nổi tiếng vai nữ chính trong “Giảng sách Dưới Trăng” ở trường Đồng Khánh. Cô hình như chủ chốt cùng với Uyên Thi và Xuân Thi trong việc trách nhiệm ban kịch.
Tuyết Lộc diễn rất ăn ý với tôi, cô có nhiều sáng kiến đóng góp cho toàn vở kịch. Tôi không biết ai làm đạo diễn, chỉ thấy ba người Tuyết Lộc, Xuân và Uyên chăm lo dẫn dắt, góp ý từng chi tiết cho Đại Hãn; khi lên ngồi trên ngai thế nào, bàn tay nắm, nắm lên vai ghế ra sao; nhất là rót rượu vào bình chứa cho Đại Hãn uống, làm Đại Hãn trở thành bi tráng trong khi tâm sự với Thúc Bột Đào giữa đêm khuya gió lạnh, bên bếp lửa và ngoài kia tuyết trắng đang rơi. Và rồi Đại Hãn hùng hổ khát máu hét to “mỗi hồi trống là một chiếc đầu rơi” thật xuất thần quá đỗi. Những cảnh gặp công chúa Tây Hạ, tấm lòng đầy nhân ái, tâm hồn Đại Hãn đã chùng xuống một nỗi lặng yên bên người đẹp của kẻ chiến bại.
Sau buổi diễn Tuyết Lộc xuống hàng ghế quan khách, đứng trước Cha Luận(2) nói, tôi không biết Tuyết Lộc nói gì, Cha Luận gật gật đầu.
Từ sau chương trình văn nghệ chào mừng kỷ niệm ngày thành lập trường Quốc Học, thầy Ngô Kha vào Sài Gòn ra Huế nói: Văn Khoa Sài Gòn dựng Thành Cát Tư Hãn, Đại Hãn đó không bằng Đại Hãn do trường Quốc Học đóng.
Đại Hãn Quốc Học Huế và Giang Minh công chúa Tây Hạ, còn chút gợi nhớ của bạn bè mỗi lần về Huế. Nhưng lạ thay ở hải ngoại tôi đi lễ chùa, bỗng có người gọi “Thành Cát Tư Hãn”, gặp mặt chẳng biết ai ra ai. Nhắc lại thì ra Nguyễn Tá Hồ cùng lớp khác Ban ở trường Quốc Học; Hồ vừa qua đời ở tại thành phố Dallas tiểu bang Texas.
Về Huế còn nghe có một Thành Cát Tư Hãn nữa, diễn tại nhà hát lớn, nhưng trong đám bạn bè, bằng hữu vẫn thương anh Thành Cát Tư Hãn và Giang Minh của trường Quốc học ngày nào. Công chúa Giang Minh với Tuyết Lộc, thông minh nhẹ nhàng thật đáng yêu.
Tôi nhớ sau buổi diễn Hoàng Hoa Tuấn(3) ôm tôi hét lớn “Tuyệt quá Miễn ơi!” Tuấn là người nhắc vở kịch cho tôi; anh theo dõi những diễn biến của Thành Cát Tư Hãn trên sân khấu suốt thời gian diễn - Nghe Tuấn đã qua đời, tôi còn nhớ Tuấn ngồi sau nhà vệ sinh của trường viết vở hài kịch cho chương trình.
Thuở ấy tôi rất “vô tư” - ngôn từ của mấy bạn bây giờ, chỉ biết phần của mình là diễn kịch thế thôi, các bộ phận khác như nhạc, hài kịch, dàn cảnh, âm thanh, ánh sáng đều không rõ ai phụ trách. Sau này nhắc lại thì có thêm Phan Văn Chạy (nhà thơ Phan Như) phụ trách ánh sáng...
Dĩ nhiên thành công của Thành Cát Tư Hãn do sự hoạt động đồng bộ của các ban, các anh chị đã nhiệt tình làm việc để đóng góp. Cho đến bây giờ gặp tôi bạn bè vẫn gọi: “Ê, Thành Cát Tư Hãn!” Tôi phân vân tự hỏi Thành Cát Tư Hãn đã chết trên ngai vàng hay chết nhẹ nhàng trong vòng tay nhân ái của Giang Minh?
Đã 57 năm trôi qua, thời gian thăm Huế rất ngắn, cũng như tuổi đời của những người bạn năm xưa trong buổi diễn cũng đang dần mỗi ngày mỗi ngắn. Và, có lẽ cũng giống như tôi mỗi lần có dịp trở về trước cổng trường Quốc Học lại thấy bóng dáng mình tập tành những động tác của vai diễn cho đến lúc thuần phục. Cả đến giấc mơ lúc ấy tôi cũng thấy mình trong vai Đại Hãn. Tôi đã bị ám ảnh và phải tự giễu cợt với chính mình:
- A, Thành Cát Tư Hãn là cậu bé 16 tuổi học lớp đệ tam C Quốc Học của năm 1963.
T.Q.M
(TCSH356/10-2018)
..............................................
(1) Tuyết Lộc là Nguyễn Thị Tuyết Lộc em gái Giáo sư Nguyễn Văn Hai - tốt nghiệp tiến sĩ toán học tại đại học Sorbonne, Paris, Pháp quốc, Phó Viện trưởng kiêm khoa trưởng Đại học Khoa Học, Viện Đại Học Huế, giáo sư Đại học Kentucky Hoa Kỳ. Sau này ông chuyên nghiên cứu Phật học, đã có nhiều tác phẩm nổi tiếng như “Luận giải Trung quán: Tánh khởi và Duyên khởi”, “Đi tìm ngã” v.v… Tuyết Lộc còn là em gái giáo sư Đại học Huế Nguyễn Văn Thạch - Tuyết Lộc học lớp đệ nhất C từ trường Đồng Khánh chuyển qua - sau khi đỗ tú tài toàn phần, cô đi du học ở Pháp, nhưng sau nghe nói cô về học ở Đại học Đà Lạt ban Triết, rồi về dạy ở Đà Nẵng, Tuyết Lộc cộng tác nhiều bài trên Tạp chí Sông Hương, cả thơ và văn, có nhiều bạn bè đã đọc và khen là rất Huế.
(2) Linh mục Cao Văn Luận (1908 - 1986) tham gia sáng lập và là Viện trưởng Viện Đại học Huế, tác giả hồi ký “Bên dòng Lịch Sử” 1940 - 1965).
(3) Hoàng Hoa Tuấn là em của Hoàng Hoa Ngự lớp đệ nhất cùng trường; Tuấn có biệt tài đàn Hạ uy cầm rất hay, tôi thường về Sịa (thị trấn Sịa thuộc huyện Quảng Điền ngày nay) chơi ở nhà Tuấn - Đêm trăng Tuấn ngồi giữa sân vườn đàn tôi hát rất vui.
HỒ DZẾNH
Hồi ký
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
NGUYỄN DU
LÝ HOÀI THU
Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.
PHẠM THỊ CÚC
(Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)
Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.
CAO THỊ QUẾ HƯƠNG
Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.
THÁI KIM LAN
Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.
Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?
Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.
Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.
DƯƠNG PHƯỚC THU
LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.
NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN
(Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)
BÙI KIM CHI
Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…
LÊ MINH
Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)
… Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.
NGUYỄN KHOA BỘI LAN
Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.
(SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.
NGUYỄN CƯƠNG
Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.
HOÀNG HƯƠNG TRANG
Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.
PHẠM HỮU THU
Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.
TRẦN NGUYÊN
Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.
PHẠM HỮU THU
Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12
“Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).