Thân phận và diện mạo Đỗ Đức Hiểu

14:40 19/08/2020

Nhà nghiên cứu Phan Ngọc khi nghiên cứu bản sắc văn hoá của người Việt Nam đã nêu ra bốn yếu tố: Tổ quốc, gia đình, thân phận và diện mạo. Theo tôi trong bốn yếu tố ấy thì quan trọng nhất, khi hai yếu tố kia đã có rồi, là thân phận và diện mạo, vì hai yếu tố này mới xác nhận vị thế một con người trong xã hội.

Anh Đỗ Đức Hiểu sinh năm 1924. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 anh đã đỗ tú tài và đang học năm thứ hai Đại học Luật Hà Nội. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là bước ngoặt thứ nhất của đời anh. Anh đi lên Việt Bắc và chuyển nghề dạy học văn ở mấy trường cấp ba có tiếng như Hùng Vương, Lương Ngọc Quyến.

Sau 1954 khi mới ngoài ba mươi tuổi, anh làm ở Ban Tu thư - Bộ Giáo dục, soạn những tập sách văn tuyển lớp 5, lớp 6, lớp 7 và tham gia nhóm nghiên cứu văn học Lê Quý Đôn, gồm chủ yếu là các nhà giáo mà anh là trẻ nhất. Nhưng sau bộ Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam (ba tập) không mấy thành công và nhất là sau sự cố Nhân văn - Giai phẩm, họ - các nhà trí thức mơ mộng - nhận ra đây không phải là thời của nhóm phái văn học, nên tự giải tán.

Anh Đỗ Đức Hiểu chuyển sang trường Đại học Tổng hợp Hà Nội dạy văn học phương Tây, chủ biên mấy bộ giáo trình, làm mấy bộ từ điển văn học. Tuy là giảng dạy văn học phương Tây nhưng anh chỉ đi sâu vào nghệ thuật Phục hưng hoặc nghệ thuật vô sản. Từ những năm 1960 đến 1970 anh giới thiệu sáng tác của Shakespeare, Rabelais, văn học công xã Paris, sáng tác của Barbusse…

Anh vẫn thích phê bình văn học, thích đóng góp tích cực cho văn nghệ vô sản. Bắt đầu từ những năm 1970, anh bỗng chuyển sang bình luận các sáng tác của Hồ Chí Minh hay thơ của Sóng Hồng và khẳng định khuynh hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa. Năm 1978 anh công bố công trình Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa với lời đề từ lấy từ tác phẩm của Trường Chinh.

Đây là một sự lạ đối với một nhà nghiên cứu văn học phương Tây lâu năm như Đỗ Đức Hiểu. Nhưng rồi thời thế xoay chuyển, ý thức văn nghệ thay đổi nhanh chóng, nên anh đã chuyển hướng nghiên cứu và có được thân phận, diện mạo trong phê bình văn học Việt Nam thời kì Đổi mới. Sau này khi đã thân với anh, tôi hỏi liệu có thể sửa chữa để tái bản cuốn Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa được không, anh trả lời dứt khoát là không được.

Năm 1981 - 1982 tôi vừa học ở Liên Xô về, đăng một số bài báo về Truyện Kiều và báo cáo về thi pháp học (tại một hội trường của Đại học Tổng hợp Hà Nội ở khu tập thể Đại học Bách khoa Hà Nội), được anh Đỗ Đức Hiểu chú ý. Rồi tôi được làm quen với anh, được anh mời đến nhà chơi, ngôi nhà ở gác hai trong con hẻm ở phố Hàng Bài, rồi còn được anh mời đến trao đổi về thi pháp học ở nhà chị Lê Hồng Sâm tại khu tập thể Nguyễn Công Trứ.

Từ đó tôi nhiều lần tạt vào nhà anh chơi. Anh là một bậc thầy đáng kính mà tôi nghe tiếng từ lâu, khi tiếp xúc tôi lại thấy gần gũi, thân tình. Mấy cuốn sách viết trong thời Đổi mới anh đều tặng tôi với lời đề tặng trân trọng kèm lời khích lệ “Mong anh có thêm nhiều công trình”. Anh ngồi trên giường, đun ấm nước sôi trên cái bếp ga bé, rồi pha nước mời tôi uống.

Anh nói nhỏ nhẹ, chậm rãi, một phong cách lịch lãm rất Hà Nội. Anh bảo, bây giờ chính là lúc phải nhanh chóng làm thay đổi lí luận và phê bình văn học Việt Nam, mình phải làm nhanh, như thể đặt viên gạch xếp hàng vào giai đoạn mới. Phải chăng anh lo thời thế có thể quay ngược lại? Anh hết lòng để đem đến những gì mới nhất.

Tôi là học trò từ Nga về, còn anh là chuyên gia văn học phương Tây lão luyện. Anh có thể không thông thuộc Nga song lại thông thuộc một thế giới văn học khác mà tôi còn biết rất ít. Anh hỏi tôi: “Anh Sử này, liệu ta có thể đem cặp phạm trù ý nghĩa/ kí hiệu, cái được biểu đạt/ cái biểu đạt mà thay cho cặp phạm trù nội dung và hình thức được không?”. Tôi đã trả lời với anh rằng, nói chung là có thể được.

Ông Kagan ở Nga đã làm thế, song hình thức còn có vẻ đẹp của nghệ thuật, còn kí hiệu thì không nhất thiết. Không phải kí hiệu nào cũng trở thành hình thức nghệ thuật. Anh im lặng, trầm ngâm. Tôi biết anh hỏi để suy nghĩ tiếp, chứ không giản đơn để nghe trả lời. Từ đây tôi bắt đầu thấy ở anh một cuộc chạy nước rút để đổi mới phê bình văn học, bởi thời gian của anh đã không còn nhiều.

Chẳng bao lâu anh có bài giới thiệu về thi pháp học trên báo Văn nghệ (1992), rồi Nhà xuất bản Khoa học xã hội công bố công trình Đổi mới phê bình văn học (1993) của anh. Đó là năm anh vừa tròn bảy mươi tuổi. (Tôi tuy đã mở chuyên đề thi pháp học ở Đại học Sư phạm Hà Nội từ năm 1982, đã nói chuyện về chuyên đề này ở nhiều nơi, song đến năm 1993, do Vụ Bồi dưỡng giáo viên yêu cầu tha thiết quá cho nên mới cho họ in tập sách nhỏ Một số vấn đề thi pháp học hiện đại. Bởi theo tôi, khi chưa chuẩn bị đầy đủ thì chưa công bố vội. So sánh như thế để thấy hồi ấy tôi còn ít tuổi, chưa vội gì cả).

Ý thức đổi mới của anh Đỗ Đức Hiểu rất rõ, và anh có nhu cầu tuyên ngôn. Bắt đầu từ bình bài Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, bình một số tác phẩm của Tự lực văn đoàn, bình thơ Hồ Xuân Hương, bình Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, bình Truyện Kiều của Nguyễn Du… Anh vừa phê bình vừa xây dựng lí luận. Anh viết giới thiệu thi pháp là gì, viết thi pháp thơ, thi pháp tiểu thuyết, thi pháp kịch.

Anh viết mà không kịp trích dẫn cụ thể, cho nên khó biết anh theo phái nào, chỉ biết anh đã chuyển sang nghiên cứu hình thức nghệ thuật của văn học thể hiện qua văn bản với nghệ thuật ngôn từ. Đọc mấy bài giới thiệu thi pháp học của anh thì biết ngay anh không phải chuyên về lí luận văn học, bởi nhầm lẫn rất nhiều.

Năm 1987 ở Pháp có cuốn Phê bình văn học thế kỉ XX của Jean-Yves Tadié, không biết lúc đó anh đã có chưa. Ở phương Tây người ta hiểu thi pháp là lí luận văn học, cả Kiberdy Varga, Tz.Todorov, G.Genette đều hiểu thế mặc dù diễn giải cụ thể có khác nhau, và họ đều phân biệt rạch ròi nghiên cứu thi pháp với phê bình văn học. Thi pháp học chỉ nghiên cứu lí thuyết, không nghiên cứu văn bản cụ thể. Còn khi tiếp cận tác phẩm cụ thể như Todorov đối với Mười ngày của Boccaccio hay Genette đối với Đi tìm thời gian đã mất của Proust thì chỉ nhằm khám phá các hình thức của nó, chứ không phê bình, tìm nghĩa, đánh giá.

Như thế, không thể có được khái niệm phê bình thi pháp học. Chỉ cần anh đọc chương 9 cuốn sách của Tadié thì anh sẽ viết khác. Ngay cả thuật ngữ thi pháp học hiện đại, thì cả phương Tây lẫn Nga đều không có. Đối với họ, thi pháp là thi pháp, thế thôi. Các mục thi pháp thơ, thi pháp văn xuôi/ tiểu thuyết, thi pháp kịch, có thể nói là anh thích gì nhớ gì thì viết nấy, chứ không có tính hệ thống nào cả.

Mục đích của anh lúc này là nêu cái mới chứ không nhằm giải quyết chúng. Chẳng hạn, làm sao giải quyết được vấn đề văn học và ngôn ngữ học trong một bài viết? Mục đích hướng tới của anh không chỉ là thi pháp mà là như tên cuốn sách - Đổi mới phê bình văn học, cho nên trong sách anh đã nêu hàng loạt vấn đề quan trọng như phê bình văn học với ngôn ngữ học, phê bình văn học với phân tâm học, phê bình văn học với xã hội học, giới thiệu về Bakhtin theo tài liệu của Aucouturier và Tadié, phê bình mới.

Có thể hiểu đó là phạm vi vấn đề mà anh hứng thú. Anh đã trình ra một nhãn quan rộng mở, làm tiền đề cho đổi mới phê bình văn học đương thời. Còn lí luận có sơ sài chút ít vẫn không sao. Dù sao thì tuyệt đại bộ phận độc giả không mấy ai đi sâu vào vấn đề học thuật. Chỉ cần quyển sách và các bài viết của anh nêu những vấn đề mà trước nay ít người nói, là đã có những tác dụng rất tích cực rồi.

Một là nó đặt vấn đề rất đàng hoàng: Đổi mới phê bình văn học, có thể vận dụng các phương pháp mà trước đây còn né tránh. Hai là thêm một tiếng nói mạnh mẽ khẳng định phương hướng nghiên cứu thi pháp văn học ở Việt Nam, khiến cho hướng nghiên cứu của tôi từ năm 1981 không rơi vào đơn độc.

Thứ ba, đó là tiếng nói của một giáo sư uy tín, mà những bài viết ở trong đó với sự tinh tế và uyên bác đã như chắp cánh thêm cho thi pháp học ở Việt Nam. Thứ tư, anh khẳng định việc nghiên cứu hình thức nghệ thuật là xu hướng của thời đại không thể cưỡng được; người ta không còn có thể lấy nội dung mà làm khó dễ cho việc nghiên cứu hình thức.

Có thể nói từ mấy bài báo của tôi năm 1981 - 1982, sang quyển sách của Phan Ngọc năm 1985 nói về phong cách Truyện Kiều, quyển sách của tôi năm 1985 - 1987 nói về thi pháp thơ Tố Hữu, đến cuốn sách Con mắt thơ của Đỗ Lai Thúy năm 1992, cuốn Từ kí hiệu học đến thi pháp học của Hoàng Trinh cũng năm 1992, đến cuốn Đổi mới phê bình văn học của anh Đỗ Đức Hiểu năm 1993, tất cả đều hướng đến khám phá hình thức nghệ thuật của tác phẩm văn học.

Chỉ trong vòng hơn mười năm mà văn học Việt Nam đã có hẳn một khuynh hướng đổi mới nghiên cứu phê bình văn học, mà nghiên cứu thi pháp học đánh dấu một sự thay đổi thật sự không thể đảo ngược của thời đại. Thực chất của cuộc đổi mới này là không xét văn học như một phản ánh nữa, mà xem nó như một sáng tạo và biểu đạt tư tưởng, tình cảm nhân sinh bằng ngôn ngữ nghệ thuật. Đó là một khuynh hướng không thể phủ nhận.

Vậy thi pháp học Đỗ Đức Hiểu có những đặc sắc gì? Anh hiểu thi pháp học là nghiên cứu, miêu tả hình thức nghệ thuật của văn học, chủ yếu là ngôn từ nghệ thuật trong văn bản. Theo hướng đó anh đã phân tích rất thú vị về ngôn ngữ trong thơ của Hồ Xuân Hương, ngôn từ nhại trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, mà cho đến lúc ấy ở Việt Nam chưa có ai phân tích theo kiểu ấy.

Anh cũng phân tích thơ nhạc trong bài Tiếng thu của Lưu Trọng Lư (nhưng theo tôi là chưa thành công vì nó rất cũ). Anh cũng phân tích một số trích đoạn trong Truyện Kiều, thể hiện cái không gian nghệ thuật, làm nổi bật lên ý nghĩa của hình thức nghệ thuật. Anh phân biệt hai loại tiểu thuyết là tiểu thuyết ý thức và tiểu thuyết tiềm thức, và anh tìm thấy trong truyện ngắn Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu, tiểu thuyết và truyện ngắn của Phạm Thị Hoài, tiểu thuyết Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh các biểu hiện của tiểu thuyết tiềm thức. Có thể nói đó là những phát hiện.

Nghiên cứu thi pháp của Đỗ Đức Hiểu vẫn còn dấu vết của sự mô phỏng nước ngoài. Ví dụ anh xem Truyện Kiều là một truyện nhân vật đi tìm tình yêu, rồi vẽ sơ đồ theo gợi ý của Valery. Theo tôi như thế là chưa ổn. Bởi sau khi Kiều gặp Kim Trọng và hứa hôn với chàng thì coi như tình yêu đã tìm xong rồi, hết chuyện rồi, chỉ còn chờ ngày cưới, nhưng khi chưa cưới thì gặp gia biến; thời gian gia biến là một câu chuyện khác, không phải chuyện đi tìm tình yêu. Hay nói Thơ mới là cuộc nổi loạn của ngôn từ thơ, nghe cũng rất Tây, nhưng có lẽ Đỗ Đức Hiểu chưa chứng minh được sự nổi loạn như người đọc chờ đợi.

Một số khiếm khuyết vừa kể không làm mờ đi sự đóng góp đúng đắn, kịp thời của Đỗ Đức Hiểu cho phê bình văn học thời kì Đổi mới. Hai năm sau khi công bố cuốn Thi pháp hiện đại (2000) thì anh ốm nặng rồi vĩnh biệt chúng ta. Tôi chắc rằng nơi chín suối anh nở nụ cười mãn nguyện. Bởi chỉ trong vòng hơn mười năm mà anh đã kịp xác lập thân phận và diện mạo của mình với tư cách là một nhà phê bình văn học.

Nguồn: Trần Đình Sử - vannghequandoi

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • 1. Quan sát tiểu thuyết Việt Nam đương đại, chúng ta sẽ nhận thấy có một số triều đại, nhân vật được các nhà văn tập trung khai khác với mật độ khá dày như nhà Trần với Trần Khánh Dư, Trần Hưng Đạo (xuất hiện trong Sương mù tháng giêng của Uông Triều, Trần Khánh Dư của Lưu Sơn Minh, Chim ưng và chàng đan sọt của Bùi Việt Sĩ, Đức Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh…), nhà Lê với Nguyễn Trãi (xuất hiện trong Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Trãi của Bùi Anh Tấn…), nhà Tây Sơn với Nguyễn Huệ (xuất hiện trong Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh…).

  • Có thể coi “Dế mèn phiêu lưu ký” là một trong những tác phẩm đặc biệt nhất của văn học Việt Nam, khi tính đến nay đã có rất nhiều ấn bản đặc biệt của bộ sách này ra đời. Mới đây, độc giả yêu mến “dế mèn” lại một lần nữa được thưởng thức cuộc phiêu lưu của chú dế lừng danh qua ấn phẩm mới với những bức tranh minh họa hoàn toàn khác biệt của nữ họa sĩ trẻ Đậu Đũa.

  • Ở vào tuổi 99, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư vẫn tỏ ra minh mẫn và tinh anh khi giao lưu cùng bạn đọc nhân dịp tái bản bộ tiểu thuyết lịch sử Loạn 12 sứ quân do NXB Văn hóa - Văn nghệ tổ chức vào sáng ngày 20-9, tại Đường sách TPHCM.

  • Khi nghe tin nhà văn Vũ Tú Nam đã trút hơi thở cuối cùng, lòng tôi dâng lên một nỗi buồn. Nhưng trong nỗi buồn ấy là những ký ức đẹp và ấm áp về ông. Hình ảnh ông hiện lên và ngự trị trên hình ảnh ấy là ánh mắt và nụ cười hiền hậu.

  • "Túc tắc sống/ Ngày nối ngày/ Túc tắc say từng phút giây/ Tới khi nào buông tay bút/ Trời xanh ngút túc tắc bay..." - là những dòng thơ của con trai nhà văn Vũ Tú Nam mới đăng để tiễn biệt cha về cõi vĩnh hằng.

  • Sớm thứ hai ngày 7-9, Trung tướng Triệu Xuân Hòa (Ba Hòa), nguyên Tư lệnh Quân khu 7, gọi cho tôi: “Anh nghe tin buồn chưa, bác Văn Lê đi đêm qua rồi”. Tôi không tin vào tai mình, hỏi lại: “Văn Lê nào, có phải nhà thơ Văn Lê?”. Giọng Ba Hòa buồn rười rượi: “Mới sớm qua, bác ấy còn đi qua ngõ nhà chúng tôi. Bác ấy vẫn cười vui mà?”.

  • “Mở mắt ngày đã trôi” là tập truyện mới của tác giả Hoàng Thanh Hương nằm trong đề án Bảo tồn, phát huy giá trị tác phẩm văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam thực hiện năm 2020.

  • Kỷ niệm 75 năm Quốc khánh 2.9, NXB Kim Đồng giới thiệu những cuốn sách về quê hương đất nước, lịch sử cách mạng, về Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, nhằm góp phần bồi đắp trong thế hệ trẻ lòng yêu nước thương nòi, tinh thần tự hào, hiểu sâu sắc hơn vị trí, uy tín của Việt Nam trong thế giới hiện đại là khởi nguồn từ ngày 2.9.1945.

  • Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp sinh năm 1950, là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam đương đại, với những sáng tác truyện ngắn đặc sắc, mang hơi hướng huyền thoại, cổ tích, hoặc lịch sử. Với Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Đông A và NXB Văn học), bạn đọc sẽ được gặp lại một cuốn sách vừa quen vừa lạ.

  • Được xem là tác phẩm đỉnh cao trong cuộc đời sáng tác ngắn ngủi của “Ông vua phóng sự đất Bắc” Vũ Trọng Phụng, tiểu thuyết Số đỏ đã từng quen thuộc với nhiều thế hệ độc giả Việt Nam. Mới đây, tác phẩm vừa được trở lại với một diện mạo hoàn toàn mới do Công ty Sách Đông A và NXB Văn học ấn hành.

  • Tôi xúc động rưng rưng khi đọc những trang đầu cuốn sách mới của nhà văn Ngô Thảo với đầu đề “Nghiêng trong bóng chiều” (Nxb. Quân đội nhân dân, 2020), mừng ông tròn tuổi 80. Ông mở đầu: Khi trò chuyện với người già, lớp trẻ sợ nhất là các vị ôn nghèo, kể khổ về thời bao cấp.

  • Trở về với miền Nam để trả món nợ ân tình, đó chính là khát vọng để Nguyễn Thi sáng tạo nên những tác phẩm cố gắng khái quát bức tranh rộng lớn của một thời cả dân tộc lên đường đánh Mĩ.

  • Bao năm qua, những sáng tác về Hà Nội đều đặn ra mắt công chúng. Không phải ngẫu nhiên nhiều tác giả luôn ưu ái dành một góc văn chương của mình để viết về Hà Nội, bởi tình yêu, sự mến thương và cảm giác gắn bó với mảnh đất Thăng Long xưa.

  • Tiểu thuyết “Những ngày cách ly”, tác giả Bùi Quang Thắng, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh dài 160 trang được viết trong 12 ngày, đề tài liên quan đến dịch Covid-19. Đọc xong, điều đầu tiên, cũng đáng nể người viết, người biên tập, đây hẳn là cuộc chạy đua để cuốn sách đến được với bạn đọc trong thời gian nhanh nhất có thể.

  • Bộ sách đồ sộ với độ dày gần 5000 trang tập hợp 30 nhật ký của những người lính trong chiến tranh. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều gọi đây là bộ hồ sơ văn hóa Việt Nam. Còn Trung tướng, Anh hùng LLVTND Đoàn Sinh Hưởng thì coi bộ sách là dấu ấn tâm hồn của các anh hùng liệt sĩ.

  • 5 năm sau khi nữ tác giả Svetlane Alexievich nhận giải Nobel văn học cho những cuốn sách thuộc thể loại phi hư cấu, Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam, bằng sự nỗ lực lớn đã tiếp tục giới thiệu các tác phẩm của bà. Hai cuốn sách được dịch và giới thiệu mới là “Những nhân chứng cuối cùng” và “Những cậu bé kẽm” do dịch giả Phan Xuân Loan thực hiện.

  • Với mong muốn khơi gợi niềm thích thú và sự tò mò của độc giả nhỏ tuổi đến với sách giáo dục truyền thống, Nhà xuất bản Kim Đồng vừa giới thiệu câu chuyện về tấm gương anh hùng của chị Võ Thị Sáu và anh Lý Tự Trọng với phần lời kể được lồng ghép cùng những bức tranh tả thực hoành tráng.

  • Trong lòng tôi, nhà văn Phạm Tường Hạnh là người anh giàu tình nghĩa, sống sôi động, bộc trực, thẳng thắn, nhưng với đồng nghiệp thì luôn biết lắng nghe và tôn trọng. Hôm nay, kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Phạm Tường Hạnh, xin có đôi dòng...

  • Đến nay, nhà văn Ma Văn Kháng đã cho ra đời hơn 20 tiểu thuyết, gần 200 truyện ngắn, chủ yếu lấy cảm hứng từ sử thi và thế sự đời tư, đề cập phần nhiều đến cuộc sống và con người vùng Tây Bắc.

  • Sáng thứ bảy 11-7, tại  Nhã Nam Books N’ Coffee Sài Gòn (24A, đường D5, P.25, Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh), Nhã Nam tổ chức cuộc tọa đàm về cảm thức thẩm mỹ trong văn học Nhật Bản.