Thân phận con người trong truyện ngắn "Hoá thân" của Franz Kafka

11:19 20/08/2008
NGUYỄN THỊ GIANG CHIF.Kafka là một trong những nhà văn lớn nhất của thế kỷ XX, một hiện tượng văn học rất phức tạp, có ảnh hưởng rộng lớn đối với tiến trình phát triển của văn học thế giới, đặc biệt là ở phương Tây.

Ông sinh năm 1883 tại Praha và mất năm 1924 tại một nhà điều dưỡng ở Áo, là nhà văn Tiệp Khắc nay là Séc) gốc Do Thái, nhưng phần lớn cuộc đời lại gắn bó với Viên (lúc bấy giờ thuộc đế chế Áo - Hung), viết bằng tiếng Đức. F.Kafka sáng tác không nhiều, ba tiểu thuyết và hơn mười truyện ngắn. Chỉ với một số lượng tác phẩm khiêm tốn như thế, Kafka đã thực sự làm một cuộc cách tân to lớn trong văn học nghệ thuật. Những đóng góp của ông biểu hiện trên hai phương diện: cách cảm nhận mới mẻ về con người, cuộc sống và những phương thức biểu hiện độc đáo, sáng tạo. Có thể nói rằng, Kafka đã là người mở đầu cho khuynh hướng viết về thân phận con người trong xã hội phi lý. Ông là người đã sớm có những cảm nhận sâu sắc và thấm thía về sự tha hoá, nỗi lo âu, sự lưu đày và cái chết của con người thời hiện đại, về việc thế giới ngày càng trở nên vô hình và bí ẩn, về sự thù địch của hoàn cảnh đối với con người. Truyện ngắn "Hoá thân" (1) đã xây dựng được một hình tượng đầy ám ảnh về thân phận con người cô đơn, lạc loài phải sống kiếp lưu đày ngay trong ngôi nhà thân yêu của mình.
G. Samsa - nhân vật chính của truyện - vốn là một nhân viên chào hàng cần mẫn và nghiêm túc, là chỗ dựa và niềm tự hào của gia đình..., song một sáng tỉnh dậy, Samsa "thấy mình đã biến thành một côn trùng khổng lồ. Lưng anh rắn như thể được bọc một lớp giáp sắt, anh nằm ngửa dợm nhấc đầu lên nhìn thấy bụng mình khum tròn, nâu bóng phân chia làm nhiều đốt cong cứng đơ, tấm chăn bông đắp trên bụng đã bị xô lệch, gần tuột hẳn. Chân anh nhễu ra, mảnh khảnh đến thảm hại so với phần còn lại của thân hình to đùng, vùng vẫy bất lực trước mắt anh". Và tiếp đó là những chuỗi ngày ê chề, đau khổ và bi đát của Samsa. Những người thân trong gia đình, từ bố, mẹ tới cô em gái Grete mà anh vô cùng yêu quý bỗng dưng trở thành những người xa lạ: họ khiếp sợ, khinh bỉ và căm thù anh. Còn anh, sau cuộc hoá thân, đã có dịp để ngẫm nghĩ lại cuộc đời mình - cuộc đời mà trước đây, mải miết chạy theo guồng quay của cuộc sống, dường như chưa bao giờ anh kịp suy nghĩ. Từ đôi mắt họ, anh mới choàng tỉnh ra bao nhiêu điều: anh nghĩ tới những người bạn đồng nghiệp "sống như cung tần mĩ nữ... mình chạy suốt sáng quay lại khách sạn để ghi số các đơn hàng, thấy chúng mới ngồi vào bàn điểm tâm". Anh nghĩ tới lão chủ dị bợm và tự dưng chán ghét cái nghề của mình, anh nghĩ tới mẹ, em gái và bố, đặc biệt là bố, sao lại có sự thay đổi nhanh đến như vậy, "đây có đúng là người cha mà anh đã từng hình dung...Bố anh, người thường mệt mỏi nằm bẹp trên giường..., người thường khoác áo ngủ nằm dài trên tràng kỷ không thể đứng dậy nổi...", vào những dịp hiếm hoi ra đường "ông quấn kín người trong chiếc áo bành tô dầy cộm, lê bước nặng nhọc với sự trợ giúp của chiếc gậy cán cong...". Giờ đây, đứng trước mặt anh là một người đàn ông đường bệ và đầy uy quyền, tin rằng "để đối xử với anh thì chỉ có những biện pháp hà khắc nhất mới thích hợp". Mọi sự nỗ lực của Sạmsa nhằm làm cho mọi người hiểu mình, nhằm bày tỏ tình cảm đối với những người thân, chỉ càng đào sâu thêm hố ngăn cách: từ sự kinh hoàng, sợ hãi trước sự biến dạng của anh, mọi người chuyển sang thái độ ân cần, thương hại, rồi nhanh chóng trở nên thờ ơ và cuối cùng hoàn toàn trở nên xa lạ, không những thế họ còn xem anh như một vết nhơ, một nỗi nhục nhã, một sự đe doạ đối với cuộc sống của mình. Cả gia đình tỏ ra nhẹ nhõm, sung sướng như trút được gánh nặng trước cái chết của anh. Chúng ta hãy chú ý tới chi tiết này, chi tiết nói về sự nỗ lực của Samsa vượt lên trên mọi nỗi đau thể xác, sự mặc cảm xấu hổ về hình hài của mình để lết đến bên cạnh cô em gái, tìm cách an ủi, động viên cô khi cô chơi đàn, tâm sự với cô về những dự định tốt đẹp của anh dành cho cô... Song những tình cảm đẹp đẽ ấy của anh không những không ai cảm nhận được, không ai hiểu được, mà hành động của anh còn là nguyên cớ làm bùng lên sự giận dữ của cả nhà, dẫn đến quyết định: anh phải chết. Rõ ràng, Samsa và gia đình, đồng loại đã là những con người hoàn toàn xa lạ. Họ không cùng một "kênh" giao tiếp, họ thuộc về những thế giới khác nhau.
Cảm giác xa lạ của con người về thế giới còn được đẩy lên một mức cao hơn - sự xa lạ với chính mình. Hình tượng đầy ám dụ - G. Samsa bị biến thành bọ, chính là biểu tượng bi đát về sự tha hoá, lạ hoá của con người. Không những không cắt nghĩa được thế giới, mà ngay với chính bản thân mình, con người cũng không thể hiểu nổi. Cuộc sống sẽ đi về đâu, khi ngay cả chính mình cũng không còn là mình, không thể tự lí giải - mình là ai?

Trong đời sống tinh thần người phương Đông, với cái nhìn nhất thể về vũ trụ, với quan niệm "thiên nhân tương đồng", con người dù cô đơn vẫn còn có một điểm tựa tinh thần, đó chính là thiên nhiên. Đến với thiên nhiên, hoà mình trong đó, con người không chỉ tìm được sự thảnh thơi trong tâm hồn, mà còn có cảm giác như được trở về với ngôi nhà thân yêu, đầy ấm cúng của mình. Vì thế, khi muốn diễn tả sự cô đơn cực độ, các nhà thơ cổ phương Đông thường đặt con người trong một không gian rộng lớn vô biên, xa lạ. Ở đó, họ không tìm thấy một hình ảnh gì thân thuộc, gần gũi với mình, con người như lạc vào một không gian, một thời gian nằm ngoài dòng chảy của cuộc đời. Bài thơ bất hủ của Trần Tử Ngang cũng phần nào nói lên điều ấy: "Tiền bất kiến cổ nhân. Hậu bất kiến lai giả. Niệm thiên địa chi du du. Độc thương nhiên nhi thế hạ" ("Đăng U Châu đài ca").
Như vậy, nếu như trong nghệ thuật phương Đông, nỗi cô đơn của con người thường được tô đậm trong sự đối lập với không gian mênh mông xa lạ, thì trong sáng tác của F.Kafka cũng như các nhà văn chương Tây sau này, con người cô đơn, lạc lõng ngay trong những không gian quen thuộc và gần gũi nhất. Con người xa lạ ngay giữa cuộc sống cộng đồng, xa lạ với người thân, thậm chí với chính mình. Vì thế, dù hình ảnh con người cô đơn, lạc lõng vốn không phải là hoàn toàn mới mẻ, lạ lẫm trong đời sống văn học song đến Kafka, nó vẫn tiếp tục tạo nên những xúc động lớn lao.
N.T.G.C
(nguồn: TCSH số 159 - 05 - 2002)

----------------------------------------
(l ) Bản dịch của Đức Tài (Tạp chí Văn học nước ngoài, 4- 1996 )

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH

  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.

  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.

  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.