Thân này lại nhớ Thân xưa

09:33 24/02/2020

LÊ QUANG THÁI

Nhà thơ Nguyễn Khoa Vy (1881-1968) ở làng An Cựu, phủ Thừa Thiên, bút hiệu Thảo Am, đã sáng tác bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú theo hạn mỗi câu có tên một con thú.

Ảnh: internet

Hai câu kết thì khá hay mà lại dí dỏm nữa:

Thỏ thẻ chuyện trò vui với bạn
Khỉ khầm đôi chén rượu đầy vơi


Đầu năm mới vì kiêng từ khỉ, người Huế bảo là "không nên". Cho dù viết khỉ phải đọc trại ra là khởi. Lại nữa, với bài thơ Thập nhị thời Thân, hạn có đủ 12 con tướng tinh của 12 năm mà chỉ dùng tục ngữ chay thì nghệ thuật làm thơ đã đạt tới mức "hết sẩy". Cũng vì kiêng từ khỉ, tác giả đã khéo thay bằng từ “chịu".

Cám treo nhịn đói nhăn răng chịu


Nhăn răng chịu lấy gốc từ thành ngữ "nhăn răng khỉ". Mừng Tết Nhâm Thân, năm 1992, kẻ hậu sinh "xin bái" 4 lạy mừng tuổi cụ Thảo Am (1)

Các nhà làm lịch xưa đều lấy ngày Giáp Tý, mồng một tháng mười một làm ngày đầu xuân mới. Tết xưa kể từ giờ THÂN, ngày GIÁP, tháng TÝ, sao GIÁP.

Cứ mỗi Giáp Tý là một Nguyên, cứ ba Nguyên là một Chu, ba Chu là một Vận. Vậy thì có thể bảo rằng từ năm NHÂM THÂN (1812) đến năm NHÂM THÂN (1992) vừa đúng một CHU. Vận mới thì thời phải đổi mới. Cầu cho quốc thái dân an và dân giàu nước mạnh.

Quả đất quay chung quanh mặt trời đúng 12 vòng quay thì THÂN LẠI GẶP THÂN. Và đúng 60 vòng quay thì NHÂM THÂN LẠI ĐỤNG NHÂM THÂN. Giữ được trọn vẹn 60 quyển lịch Tàu, tục gọi là Lịch Vạn niên là điều không phải dân sưu tập sách cổ nào cũng làm nổi.

Nhớ lại, tháng 6 năm Nhâm Thân 1812 theo lời tâu của Tổng tài quốc sử quán Nguyễn Văn Thành (nhận chức từ tháng chạp năm Tân Mùi) đã tâu xin vua Gia Long 4 điều quan yếu để làm phong hóa hưng dậy. Hai việc hệ trọng là:

1. Xin vua ngự lãm sách luật rồi khắc ban ra cho rõ phép nước.

2. Xin lựa nho thần sung vào sử cuộc(2).

Rồi thực dân Pháp đặt nền bảo hộ từ năm 1886 trên toàn cõi đất nước ta, vua chúa do chúng bưng lên để xuống. 60 năm sau, năm Nhâm Thân 1932, vua Bảo Đại (kế vị vua cha Khải Định từ năm 1925) sau thời gian du học ở Pháp trở về nước. Bảo Đại đã đi tuần du các tỉnh từ Thanh Hóa cho đến Phan Thiết. Vì quan quân, dân chúng Phan Thiết phải đi đón rước Hoàng đế cho nên không sản xuất lượng và chất nước mắm đạt yêu cầu cho các hãng thầu nước mắm Phan Thiết. Trời ơi! Câu hát:

Trồng khoai không trái
Làm ruộng mất mùa,
Cờ bạc thì thua
Đi buôn lỗ vốn
Tới miễu Bồ đề
Chờ cho vua về
Làm ăn mới đặng


đã trở thành lời mỉa mai cay đắng như ngậm quả bồ hòn. Rồi vì ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, đồng tiền mất giá, tư bản Pháp bòn rút sức lao động thì lời cầu mong của dân chúng đã trở thành bánh vẽ to tướng.

Thôi thì đành "Thân lại lập thân" chớ đừng trông bên nội, trông bên ngoại làm chi cho nhọc thân.

Từ "thân" cũng như từ "hầu" vốn có nhiều nghĩa. Thân là con khỉ, hầu cũng là khỉ con. Khỉ con, con khỉ thì đều là khỉ cả.

Từ - Nguyên giải thích THÂN là KHỈ. Sách Đại Nam nhất thống chí ghi: HẦU.

"Bản thảo”, gọi tên là Mộc hầu, là Di hầu, "Quảng Vận" gọi là Thư, là Vương tôn, là Hồ tôn. Con khỉ hình tượng giống người mà chất nó là loại trùng, tánh ưa lau mặt, như là lau rửa vậy, cho nên gọi là tên Mộc. Sau người ta lầm nhận âm "Mộc" làm "Mẫu", lại lầm nhận âm "MẪU” làm "DI", càng làm cho mất nghĩa. Trong chuồng nuôi ngựa, nuôi theo con khỉ để trừ bệnh cho ngựa. Tục cũng gọi là MÃ LƯU, thuộc về loại NHU HẦU vậy.(3)

Thân lại nhiều thân mà hầu lại lắm hầu. Đồng âm mà dị nghĩa, ngôn ngữ thật giàu ý nghĩa phong phú và thâm sâu. Trách gì người ta nói mỉa mai về việc sờ mó vào đồ cổ:

Đầu ghềnh có con ba ba.
Kẻ la con chạch, người kêu con rùa.

Hình ảnh những năm Thân khó phai mờ trong tâm tư người dân xứ Huế. Nào là Hòa ước Giáp Thân (1884), trận đói các năm Thân, Dậu (1944, 1945), năm Mậu Thân (1968) v.v..

Được mùa chớ phụ môn khoai
Đến năm Thân Dậu lấy ai bạn cùng.


Trước nữa, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế ở núi Bân, rồi cùng ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22-12-1788) mở một cuộc duyệt binh lớn ở cánh đồng phía nam núi Ngự Bình. Về sau, Vua Tự Đức lên ngôi vào tháng 10, ngày Kỷ Sửu năm Tân Mùi (Thiệu Trị thứ 7, 1847) nhưng kể từ năm sau, Mậu Thân (1848) mới lấy niên hiệu Tự Đức nguyên niên cho danh chính ngôn thuận. Tháng 3 năm 1908 (Mậu Thân) đã mở đầu phong trào kháng thuế Trung Kỳ, nhân chứng lịch sử người Pháp, Jean Ajalbert coi đây là "Cuộc khởi loạn được tổ chức một cách thông thạo nhất, - như là một sự luyện tập, một sự thao diễn thí nghiệm trong đó xứ An Nam tổng ước các năng lực của nó, kiểm điểm các lực lượng phiến loạn của nó"(4).

Kể ra, người Pháp đã biết nể phục ý thức dân tộc trào vọt mạnh mẽ nơi người Việt trong cuộc đấu tranh giành quyền sống và tự chủ dân tộc.

Bên chén rượu nồng, phảng phất hương vị ngày Tết "khỉ khầm” xin kể chuyện năm Thân theo lối chắp nhặt lời quê để mua vui không tốn tiền.

Huế 7-12-91
L.Q.T
(TCSH47/01-1992)


--------------
(1) Hương Bình Thi Phẩm, Hoàng Trọng Thược. Đà Nẵng, 1962, trang 152,153.
(2) Quốc Triều Chánh Biên, Nghiên cứu Sử Địa, Sài Gòn, 1972, tr.81.
(3) Đại Nam Nhất Thống Chí. Thừa Thiên Phủ, tập Hạ. Nha Văn Hóa Sài Gòn 1962. tr. 97.
(4) Xem Nguyễn Thế Anh, Thử xét lại các nguyên nhân của phong trào kháng thuế miền Trung năm 1908. Nghiên cứu Việt Nam. 1973 tr. 5.




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • BỬU Ý

    Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.

  • LÊ QUANG KẾT
                   

    Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).

  • VŨ THU TRANG

    Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.

  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ

    Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.

  • HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
                                      Đoản văn

    Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!

  • LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ

  • BÙI KIM CHI

    Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.

  • KIM THOA

    Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên        
          
                       (Hàn Mạc Tử)

  • NGUYỄN VĂN UÔNG

    Hôm nay có một người du khách
    Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên         
     

    (Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUY

    Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.

  • LÊ QUANG KẾT                
                      Tùy bút

    Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.

  • TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.

  • LÊ QUANG KẾT

    Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.

  • HUY PHƯƠNG

    Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
    Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên         
                          
                                              (Tố Hữu)

  • PHAN THUẬN AN

    Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.

  • MAI KIM NGỌC

    Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.

  • HOÀNG HUẾ

    …Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…

  • QUẾ HƯƠNG

    Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.

  • THU TRANG

    Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ

    Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.