Văn bản được dịch sau đây là tài liệu kinh điển thể hiện ngắn gọn và súc tích quan niệm của ông về sự tái sản xuất ý hệ của văn học nghệ thuật. Vốn là một lá thư được đăng trên La Nouvelle Critique năm 1966, văn bản này về sau được in lại trong tuyển tập các công trình của ông, được dịch sang tiếng Anh Lenin and Philosophy and Other Essays.
Hoàng Phong Tuấn dịch và giới thiệu
LOUIS ALTHUSSER
La Nouvelle Critique đã gởi cho tôi lá thư của bạn1. Bạn sẵn lòng cho phép tôi nếu không phúc đáp hết những câu hỏi đã nêu ra trong thư thì ít ra cũng thêm vài ý bình luận vào dòng suy tưởng của bạn được chứ?
Trước hết, bạn nên biết rằng tôi hoàn toàn hiểu rõ bài viết của tôi về Thuyết Nhân bản là rất sơ lược2. Như bạn thấy đó, mặt bất lợi của nó là đã đưa ra một ý niệm “đại khái” về ý hệ mà không đi vào phân tích chi tiết. Vì nó không nói gì về nghệ thuật nên tôi nhận thấy rằng ta có thể tự hỏi nghệ thuật nên hay không nên được sắp đặt như thế trong các ý hệ, nói cho thật chính xác, nghệ thuật và ý hệ có phải là một và chỉ là một thứ hay không. Chính vì thế mà, theo cảm tưởng của tôi, bạn đã nỗ lực diễn giải sự im lặng của tôi [những gì tôi không nói].
Vấn đề mối quan hệ giữa nghệ thuật và ý hệ là vấn đề rất phức tạp và rất khó khăn. Tuy nhiên, tôi có thể cho bạn biết những đường hướng nghiên cứu của tôi. Tôi không xếp nghệ thuật đích thực vào lĩnh vực các ý hệ, cho dù nghệ thuật có mối quan hệ hoàn toàn đặc thù và đặc biệt với ý hệ. Nếu bạn muốn tự tạo ra một ý niệm nào đó về các yếu tố đầu tiên của luận đề này và những bước phát triển rất phức tạp mà nó hứa hẹn, tôi khuyên bạn nên đọc cẩn thận bài báo “Lenin, nhà phê bình Tolstoï” của Pierre Macherey, trong La Pensée, số 121, năm 19653. Dĩ nhiên, bài báo này chỉ là khởi đầu, nhưng nó đặt ra vấn đề về mối quan hệ giữa nghệ thuật và ý hệ, và tính đặc sắc (spécialité) của nghệ thuật. Đây chính là đường hướng mà chúng tôi đang tiến hành, và chúng tôi hy vọng sẽ công bố các công trình nghiên cứu quan trọng về chủ đề này trong vài tháng tới.
Bài báo đó cũng sẽ đem đến cho bạn ý niệm đầu tiên về mối quan hệ giữa nghệ thuật và nhận thức. Nghệ thuật (tôi đang nói về nghệ thuật đích thực, chứ không phải những tác phẩm mức độ trung bình hay tầm thường) không mang lại cho chúng ta sự nhận thức theo nghĩa nghiêm ngặt của từ này, do đó nó không thay thế cho nhận thức (theo nghĩa hiện đại: nhận thức khoa học), tuy thế điều mà nó mang lại cho chúng ta là giữ một mối quan hệ đặc biệt với nhận thức. Mối quan hệ này không phải là mối quan hệ đồng nhất mà là mối quan hệ khác biệt. Để tôi giải thích điều này. Tôi tin rằng đặc tính của nghệ thuật là ‘cho ta thấy’, ‘cho ta tri giác’, ‘cho ta cảm nhận’ điều gì đó ám chỉ thực tại. Nếu ta xem xét trường hợp của tiểu thuyết, Balzac hoặc Solzhenitsyn, như bạn đã viện dẫn, họ cho ta thấy, cho ta tri giác (chứ không phải cho ta biết) điều gì đó ám chỉ thực tại.
Ta cần phải hiểu những từ ngữ làm nên định nghĩa ban đầu tạm thời này theo nghĩa đen để tránh sa vào việc đồng nhất cái mà nghệ thuật mang lại cho ta với cái mà khoa học mang lại cho ta. Cái mà nghệ thuật làm ta thấy, và do đó mang lại cho ta trong hình thức ‘thấy’, ‘tri giác’ và ‘cảm nhận’ (không phải trong hình thức biết), đó là ý hệ, tức cái từ đó nghệ thuật được sản sinh ra, là cái nghệ thuật tắm mình ở trong đó, là cái từ nó nghệ thuật tách mình ra với tư cách là nghệ thuật, và là cái nghệ thuật ám chỉ đến. Macherey đã chỉ ra điều này rất rõ trong trường hợp của Tolstoï, qua việc mở rộng các phân tích của Lenin. Balzac và Solzhenitsyn mang lại cho ta một ‘cái nhìn’ về ý hệ mà tác phẩm của họ không ngừng ám chỉ, và từ ý hệ ấy nó không ngừng được nuôi dưỡng, một cái nhìn giả định phải có sự lùi lại, sự gián cách nội tại đối với chính cái ý hệ mà từ đó tiểu thuyết của họ sinh ra. Họ làm cho ta “tri giác” (chứ không phải làm cho ta biết) theo cách nào đó từ bên trong, bằng một khoảng cách nội tại, chính ý hệ chứa đựng chúng.
Những sự phân biệt này, không chỉ đơn giản là những sắc thái mà còn là những sự khác biệt cụ thể, về mặt nguyên tắc hẳn sẽ cho phép ta giải quyết một số vấn đề.
Trước hết, vấn đề “các quan hệ” giữa nghệ thuật và khoa học. Cả Balzac lẫn Solzhenitsyn đều không mang lại cho ta bất kỳ nhận thức nào về thế giới mà họ miêu tả, họ chỉ làm cho ta ‘thấy’, ‘tri giác’ và ‘cảm nhận’ thực tại của ý hệ của thế giới đó. Khi nói về ý hệ, ta nên biết rằng ý hệ thâm nhập vào trong toàn bộ hoạt động của con người, rằng nó đồng nhất với chính cái “sống trải” (“vécu”) của sự hiện hữu của con người: đó là lý do tại sao hình thức trong đó ý hệ ‘được mang lại để ta thấy’ trong các tiểu thuyết lớn đều có nội dung là cái “sống trải” của các cá nhân. Cái “sống trải” này không phải là cái được mang lại (le donné), cái được mang lại từ một “thực tại” thuần túy, mà là cái “sống trải” tự phát của ý hệ trong mối quan hệ riêng của nó với cái hiện tồn (réel). Đây là một nhận xét quan trọng, vì nó cho phép ta hiểu rằng nghệ thuật không xem xét một thực tại nào dành riêng cho nó cả, tức không xem xét lãnh vực riêng biệt nào của thực tại mà nó có độc quyền (đấy là điều bạn muốn hàm ý khi bạn nói rằng “cùng với nghệ thuật, nhận thức trở thành con người”, rằng đối tượng của nghệ thuật là “cái cá nhân”), trong khi đó khoa học xem xét lãnh vực khác của thực tại (tức là đối lập với “cái sống trải” và với “cái cá nhân”: sự trừu tượng hóa của các cấu trúc). Ý hệ cũng là đối tượng của khoa học, cái “sống trải” cũng là đối tượng của khoa học, cái “cá nhân” cũng là đối tượng của khoa học. Sự khác biệt thực sự giữa nghệ thuật và khoa học nằm ở hình thức riêng biệt trong đó chúng mang lại cho ta cùng một đối tượng theo các cách thức rất khác nhau: nghệ thuật trong hình thức “thấy”, và “tri giác” hay “cảm”, khoa học trong hình thức của nhận thức (theo nghĩa nghiêm ngặt của từ: bằng các khái niệm).
Cùng một điều nhưng ta có thể nói bằng nhiều lối diễn đạt khác nhau. Nếu Solzhenitsyn “làm cho ta thấy” cái “sống trải” (theo nghĩa được định nghĩa ở trên) của “sự sùng bái cá nhân” và những hệ quả của nó, thì đó không phải là ông mang lại cho ta sự nhận thức về chúng: nhận thức này là nhận thức khái niệm về các cơ chế phức tạp mà điểm cuối của chúng là sản xuất ra “cái sống trải” mà tiểu thuyết của Solzhenitsyn bàn luận. Nếu muốn dùng ngôn ngữ của Spinoza ở đây nữa, tôi sẽ nói rằng nghệ thuật làm cho ta “thấy” “những kết luận không có tiền đề”, trong khi đó, nhận thức đưa ta thâm nhập vào cơ chế sản xuất ra “các kết luận” từ “các tiền đề”. Đây là điểm phân biệt quan trọng, vì nó cho phép ta hiểu rằng một tiểu thuyết viết về “sự sùng bái”, dù rất sâu sắc, có thể khiến ta chú ý đến các hệ quả “sống trải” của sự sùng bái, chứ không thể mang lại sự hiểu biết về nó; ta có thể đặt ra câu hỏi về “sự sùng bái” theo chương trình nghị sự, chứ không thể xác định các phương tiện cho phép nó khắc phục các hệ quả này.
Theo cách tương tự, những nguyên tắc sơ đẳng này có thể cho phép ta chỉ ra đường hướng theo đó ta có thể hy vọng có câu trả lời cho câu hỏi khác mà bạn nêu ra: Bất chấp những lựa chọn chính trị cá nhân của ông, Balzac làm thế nào “để ta thấy” trong hình thức phê phán cái kinh nghiệm “sống trải” về xã hội tư bản? Tôi không nghĩ ta có thể nói, như cách của bạn, rằng ông ấy “buộc phải, do logic nghệ thuật của ông, từ bỏ những quan niệm chính trị nào đó trong tác phẩm của mình với tư cách là một tiểu thuyết gia”. Trái lại, chúng ta đều biết Balzac không bao giờ từ bỏ các lập trường chính trị của ông. Chúng ta cũng biết: các lập trường chính trị phản động của chính ông giữ vai trò quyết định trong sự sản xuất ra nội dung của tác phẩm ông. Đây chắc chắn là một nghịch lý, nhưng thực tế là như vậy, và lịch sử đã cung cấp cho ta nhiều ví dụ mà Marx khiến ta phải lưu ý (về Balzac, tôi gợi ý cho bạn bài báo của R. Fayolle trong số đặc biệt của tạp chí Europe năm 1965). Đây là những trường hợp xuyên tạc ý nghĩa rất thường xuyên trong phép biện chứng của các ý hệ. Hãy đọc những gì Lénine viết về Tolstoï (trong bài báo của Macherey): lập trường ý hệ cá nhân của Tolstoï là một phần cấu thành của các nguyên nhân sâu xa của nội dung tác phẩm của ông. Thực tế là nội dung tác phẩm của Balzac và Tolstoï bị “tách ra” khỏi ý hệ chính trị của họ và theo cách nào đó làm cho ta “thấy” nó từ bên ngoài, làm cho ta “tri giác” nó từ sự gián cách bên trong ý hệ này, lấy chính ý hệ đó làm điều kiện tiên quyết. Chắc chắn ta có thể nói rằng chính “tác động/hệ quả” của nghệ thuật của họ với tư cách các tiểu thuyết gia đã tạo ra sự gián cách này, nội tại trong ý hệ của họ, tức sự gián cách để ta có thể “tri giác” nó, chứ không thể nói như bạn rằng, nghệ thuật “có logic của riêng nó”, và cái logic ấy buộc Balzac phải từ bỏ các quan niệm chính trị của mình. Trái lại, chính vì giữ lấy chúng mà ông mới có thể sản xuất ra tác phẩm của mình, chính vì gắn chặt với ý hệ chính trị của mình mà ông mới có thể tạo ra trong nó “sự gián cách” nội tại này, và sự gián cách ấy sẽ mang lại cho ta “cái nhìn” phê phán về nó.
Như bạn thấy, để có thể trả lời phần lớn các câu hỏi do sự hiện hữu và bản tính đặc biệt của nghệ thuật đặt ra cho ta, ta buộc phải sản xuất ra một nhận thức (khoa học) thỏa ứng về các tiến trình tạo ra ‘tác động/hiệu ứng thẩm mỹ’ của một tác phẩm nghệ thuật. Nói cách khác, để trả lời câu hỏi về mối quan hệ giữa nghệ thuật và nhận thức, ta phải sản xuất ra một nhận thức về nghệ thuật.
Bạn ý thức rõ về tính tất yếu này. Nhưng bạn cũng phải biết rằng về vấn đề này chúng ta còn một chặng đường dài. Sự công nhận (thậm chí là sự công nhận trên bình diện chính trị) về sự hiện hữu và tầm quan trọng của nghệ thuật không cấu tạo nên sự nhận thức về nghệ thuật. Thậm chí, tôi còn nghĩ rằng ta không thể coi các văn bản mà bạn đề cập4, kể cả Joliot-Curie do Marcenac viện dẫn5, là những khởi đầu của nhận thức. Tôi xin có đôi lời về câu được gán cho Joliot-Curie, câu này chứa hệ thuật ngữ: “sáng tạo thẩm mỹ, sáng tạo khoa học”, chắc chắn là rất thông dụng, nhưng theo ý tôi, hệ thuật ngữ này cần phải được loại bỏ và thay bằng hệ thuật ngữ khác, để có thể đặt vấn đề về nhận thức nghệ thuật một cách thích hợp. Tôi biết rằng người nghệ sĩ, cũng như những người yêu nghệ thuật, đã tự diễn tả mình một cách tự phát bằng lời lẽ “sáng tạo”, v.v. Đấy là một ngôn ngữ “tự phát”, nhưng theo Marx và Lénine, chúng ta biết rằng bất cứ ngôn ngữ tự phát nào cũng đều là ngôn ngữ có tính ý hệ, rằng nó chuyên chở một ý hệ, ở đây là ý hệ của nghệ thuật và của hoạt động sản xuất ra các tác động/hiệu ứng thẩm mỹ. Giống như mọi nhận thức, nhận thức về nghệ thuật tiền giả định một sự đoạn tuyệt tiên quyết với ngôn ngữ của tính tự phát ý hệ (spontaneité idéologique) và sự cấu tạo một hệ thống khái niệm khoa học để thay thế nó. Cần phải ý thức rõ về tính tất yếu của sự đoạn tuyệt này với ý hệ để có thể tiến hành xây dựng nên tòa nhà của nhận thức nghệ thuật.
Có lẽ ở đây tôi phải hết sức dè chừng về những gì bạn nói. Có lẽ tôi chưa nói chính xác về điều bạn muốn hay ắt muốn nói, mà về điều bạn thực sự nói. Khi bạn đem “sự phản tư nghiêm ngặt về các khái niệm của chủ nghĩa Marx” đối lập với “thứ khác”, cụ thể là với cái mà nghệ thuật mang lại cho ta, tôi tin rằng bạn đang thiết lập một sự so sánh hoặc không hoàn chỉnh. Vì trên thực tế nghệ thuật cung cấp cho ta cái gì đó khác với khoa học, không có sự đối lập nào giữa chúng cả, chỉ có sự khác biệt mà thôi. Trái lại, nếu đó là vấn đề nhận thức nghệ thuật, thì nhất định ta phải bắt đầu bằng “sự phản tư nghiêm ngặt về các khái niệm cơ bản của chủ nghĩa Marx”: không có cách nào khác. Và khi tôi nói: “ta phải bắt đầu…” thì chỉ nói thôi chưa đủ, mà còn phải thực hiện điều đó. Nếu không, ta có thể dễ dàng thoát mình ra khỏi nó bằng việc công nhận qua loa, kiểu như “Althusser chủ trương trở lại với việc nghiên cứu chặt chẽ lý thuyết mác-xít. Tôi đồng ý rằng điều này là cần thiết, nhưng như thế là chưa đủ”. Phản hồi của tôi với câu nói trên chỉ là một phê phán thực sự: có một cách tuyên bố yêu sách “không thể tránh khỏi” nào đó, yêu sách ấy cốt ở chỗ tự nó miễn trừ nó, miễn trừ khỏi sự xem xét cẩn trọng về tất cả những hàm ý và hệ quả của nó - bằng những lời khen cho có để chuyển nhanh sang “thứ khác”... Thế thì, tôi tin rằng cách duy nhất hy vọng có thể đạt đến một nhận thức thực sự về nghệ thuật, đi sâu vào tính đặc sắc của tác phẩm nghệ thuật, nhận biết các cơ chế tạo ra “tác động/hiệu ứng thẩm mỹ”, đó chính là cần đi chậm rãi thật lâu với sự chú tâm cao nhất đối với “các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Marx”, đừng hấp tấp “chuyển sang thứ khác”, bởi vì nếu chuyển quá nhanh sang thứ khác, ta sẽ không đạt đến sự nhận thức nghệ thuật, mà chỉ rơi vào một ý hệ về nghệ thuật: như ý hệ thuyết nhân bản tiềm tàng chẳng hạn, đó là ý hệ có thể được dẫn đến bởi những gì bạn nói về mối quan hệ giữa nghệ thuật và “con người”, và về “sự sáng tạo” nghệ thuật, v.v...
Nếu phải dùng đến (và đây là công việc lâu dài và gian khổ) “các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Marx” để có thể [tư duy] một cách đúng đắn, trong các khái niệm không phải là các khái niệm có tính ý hệ về sự tự phát thẩm mỹ, mà là các khái niệm khoa học thỏa ứng với đối tượng của chúng, và vì thế là các khái niệm hoàn toàn mới, thì đấy không phải là để bước qua nghệ thuật một cách lặng lẽ hay hy sinh nó cho khoa học, đấy hoàn toàn chỉ là để nhận thức nó, và trả lại cho nó cái nó có quyền được hưởng.
L.A
(TCSH435/05-2025)
----------------
1 Xem tạp chí La Nouvelle Critique, no. 175, April 1966, pp. 136-41.
2 La Nouvelle Critique, no. 164, March 1965; Về Marx, pp. 242-7.
3 Đã in trong Pierre Macherey, Về một lí thuyết sản xuất văn học, Paris, 1966, pp. 125-57.
4 [Jean Marcenac, Elsa Triolet, Lukács, và những người khác.]
5 [Jean Marcenac, Les Lettres Françaises, 1966. ‘Tôi luôn hối tiếc một sự thật là F. Joliot-Curie chưa bao giờ theo đuổi dự án mà anh ta đã khuyên tôi lúc Eluard chết, dự án nghiên cứu so sánh sáng tạo thi ca và sáng tạo khoa học, mà anh ấy nghĩ là rốt cuộc sẽ chứng minh bản sắc qua tiến trình của chúng.’]
_____________
Hoàng Phong Tuấn dịch từ bản tiếng Anh: Louis Althusser, 1971, Lenin and Philosophy and Other Essays, translated from the French by Ben Brewster, London and New York: Monthly Review Press. Đinh Hồng Phúc hiệu đính từ nguyên bản tiếng Pháp: http://ressources-socius.info/index.php/actualites/143-nouvelle-reedition-louisalthusser-lettre-sur-la-connaissance-de-l-art.
HÀ VĂN LƯỠNG
Haruki Murakami sinh ra ở Nhật Bản, nhưng lại sống nhiều năm ở nước ngoài, chịu ảnh hưởng khá đậm nét văn hóa phương Tây, trong sáng tác của ông, cùng với những biểu hiện của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, chủ nghĩa hậu hiện đại, những yếu tố vô thức, tâm linh cũng được nhà văn thể hiện trên các bình diện khác nhau.
Li-Hsiang Lisa Rosenlee, sinh năm 1968, hiện là Giáo sư Triết học ở Đại học Hawaii - Hoa Kỳ, lĩnh vực nghiên cứu chính của bà là Triết học nữ quyền, Đạo đức và triết học Trung Quốc thời cổ đại.
PHAN TUẤN ANH
Uông Triều là nhà văn tạo được dấu ấn trên văn đàn Việt Nam trong khoảng gần mười năm qua. Ngòi bút của anh xông xáo, mạnh mẽ thể nghiệm mình trên nhiều thể loại, nhiều trường phái và hệ hình nghệ thuật khác nhau.
LÊ QUANG TRANG
YẾN THANH
Mất gần sáu năm, từ khi còn đang là một nhà phê bình trẻ đầy xông xáo trên văn đàn, cho đến khi trở thành một người có thẩm quyền và uy tín trong lĩnh vực của mình, bạn đọc yêu mến nhà phê bình Đoàn Ánh Dương mới lại được hội ngộ anh qua một chuyên luận nghiên cứu văn học.
NGUYỄN QUANG HUY
NGUYỄN MẠNH TIẾN
PHƯỚC CHÂU
Phan Du không chỉ là cây bút truyện ngắn thời danh ở các đô thị miền Nam trước năm 1975, mà còn là nhà biên khảo lịch sử thông qua cảm quan của một nhà văn, được bạn đọc một thời yêu thích.
ĐINH THỊ TRANG
Trâu là một trong những vật nuôi gần gũi với con người. Chúng được thuần hóa rất sớm (cách nay khoảng 6.000 năm). Trâu hiện diện trong đời sống lao động vật chất cho đến đời sống tinh thần của người dân. Tùy theo các nền văn hóa mà chúng có sự ưu ái và địa vị khác nhau.
PHAN VĂN VĨNH
Chế Lan Viên là một nhà thơ lớn, nhà nghiên cứu lý luận, nhà phê bình văn học nghệ thuật hiện đại thế kỷ XX. Ông tên thật là Phan Ngọc Hoan (ghi trong gia phả là Phan Ngọc Hoan Châu), sinh năm 1920. Quê làng An Xuân, xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị; ngày xưa làng An Xuân thuộc tổng An Lạc, huyện Võ Xương, phủ Triệu Phong.
HỒ THẾ HÀ
Từ những năm 30 của thế kỷ XX, Hải Triều Nguyễn Khoa Văn (1908 - 1954) được xem là nhà báo, nhà lý luận phê bình văn học tiên phong và xuất sắc.
ĐOÀN ÁNH DƯƠNG
Tương thông trực tiếp với thế giới phương Tây, văn học ở Nam Việt Nam có sự gắn bó chặt chẽ với những biến chuyển của văn hóa và văn học Âu Mỹ.
TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT
VŨ HIỆP
Quá trình di cư và định cư, sự thích ứng với thổ nhưỡng và môi trường sinh thái, những biến cố và lựa chọn lịch sử, di truyền sinh học và văn hóa... đã tạo nên những đặc tính nghệ thuật khác nhau được lưu truyền ở các dân tộc. Hiện tượng đó có thể gọi là Mã gien nghệ thuật.
HỒ THẾ HÀ
Yến Lan là nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới (1932 - 1945). Ông sinh ra, lớn lên, học tập và làm thơ trên vùng đất cũ thành Đồ Bàn, thuộc làng An Ngãi, phủ An Nhơn. Ông là một trong những thành viên nòng cốt của nhóm thơ Bình Định.
PHẠM PHÚ PHONG
Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Văn Hạnh là vị thầy khả kính của nhiều thế hệ học trò, trong đó có tôi. Ông là nhà giáo, nhà lý luận, phê bình nổi tiếng, tác giả của nhiều công trình nghiên cứu được bạn đọc cả nước chú ý.
PHẠM XUÂN PHỤNG
Trong một lần gặp mặt toàn thể hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, nhà giáo - nhà văn - dịch giả Bửu Ý có nêu một gợi ý: Từ điển Tiếng Huế thì bác sĩ Bùi Minh Đức đã thực hiện.