Thư về nhận thức nghệ thuật (trả lời André Daspre)

09:30 10/06/2025
Louis Althusser (1918 - 1990) là nhà triết học Mác-xít người Pháp có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng triết học và lý thuyết khoa học xã hội và nhân văn thế kỷ XX. Hai đề xuất lý thuyết nổi bật của ông là lý thuyết về ý hệ (ideology) và lý thuyết về nghệ thuật như là sự tái sản xuất ý hệ.

Văn bản được dịch sau đây là tài liệu kinh điển thể hiện ngắn gọn và súc tích quan niệm của ông về sự tái sản xuất ý hệ của văn học nghệ thuật. Vốn là một lá thư được đăng trên La Nouvelle Critique năm 1966, văn bản này về sau được in lại trong tuyển tập các công trình của ông, được dịch sang tiếng Anh Lenin and Philosophy and Other Essays.

Hoàng Phong Tuấn dịch và giới thiệu


LOUIS ALTHUSSER

La Nouvelle Critique đã gởi cho tôi lá thư của bạn1. Bạn sẵn lòng cho phép tôi nếu không phúc đáp hết những câu hỏi đã nêu ra trong thư thì ít ra cũng thêm vài ý bình luận vào dòng suy tưởng của bạn được chứ?

Trước hết, bạn nên biết rằng tôi hoàn toàn hiểu rõ bài viết của tôi về Thuyết Nhân bản là rất sơ lược2. Như bạn thấy đó, mặt bất lợi của nó là đã đưa ra một ý niệm “đại khái” về ý hệ mà không đi vào phân tích chi tiết. Vì nó không nói gì về nghệ thuật nên tôi nhận thấy rằng ta có thể tự hỏi nghệ thuật nên hay không nên được sắp đặt như thế trong các ý hệ, nói cho thật chính xác, nghệ thuật và ý hệ có phải là một và chỉ là một thứ hay không. Chính vì thế mà, theo cảm tưởng của tôi, bạn đã nỗ lực diễn giải sự im lặng của tôi [những gì tôi không nói].

Vấn đề mối quan hệ giữa nghệ thuật và ý hệ là vấn đề rất phức tạp và rất khó khăn. Tuy nhiên, tôi có thể cho bạn biết những đường hướng nghiên cứu của tôi. Tôi không xếp nghệ thuật đích thực vào lĩnh vực các ý hệ, cho dù nghệ thuật có mối quan hệ hoàn toàn đặc thù và đặc biệt với ý hệ. Nếu bạn muốn tự tạo ra một ý niệm nào đó về các yếu tố đầu tiên của luận đề này và những bước phát triển rất phức tạp mà nó hứa hẹn, tôi khuyên bạn nên đọc cẩn thận bài báo “Lenin, nhà phê bình Tolstoï” của Pierre Macherey, trong La Pensée, số 121, năm 19653. Dĩ nhiên, bài báo này chỉ là khởi đầu, nhưng nó đặt ra vấn đề về mối quan hệ giữa nghệ thuật và ý hệ, và tính đặc sắc (spécialité) của nghệ thuật. Đây chính là đường hướng mà chúng tôi đang tiến hành, và chúng tôi hy vọng sẽ công bố các công trình nghiên cứu quan trọng về chủ đề này trong vài tháng tới.

Bài báo đó cũng sẽ đem đến cho bạn ý niệm đầu tiên về mối quan hệ giữa nghệ thuật và nhận thức. Nghệ thuật (tôi đang nói về nghệ thuật đích thực, chứ không phải những tác phẩm mức độ trung bình hay tầm thường) không mang lại cho chúng ta sự nhận thức theo nghĩa nghiêm ngặt của từ này, do đó nó không thay thế cho nhận thức (theo nghĩa hiện đại: nhận thức khoa học), tuy thế điều mà nó mang lại cho chúng ta là giữ một mối quan hệ đặc biệt với nhận thức. Mối quan hệ này không phải là mối quan hệ đồng nhất mà là mối quan hệ khác biệt. Để tôi giải thích điều này. Tôi tin rằng đặc tính của nghệ thuật là ‘cho ta thấy’, ‘cho ta tri giác’, ‘cho ta cảm nhận’ điều gì đó ám chỉ thực tại. Nếu ta xem xét trường hợp của tiểu thuyết, Balzac hoặc Solzhenitsyn, như bạn đã viện dẫn, họ cho ta thấy, cho ta tri giác (chứ không phải cho ta biết) điều gì đó ám chỉ thực tại.

Ta cần phải hiểu những từ ngữ làm nên định nghĩa ban đầu tạm thời này theo nghĩa đen để tránh sa vào việc đồng nhất cái mà nghệ thuật mang lại cho ta với cái mà khoa học mang lại cho ta. Cái mà nghệ thuật làm ta thấy, và do đó mang lại cho ta trong hình thức ‘thấy’, ‘tri giác’ và ‘cảm nhận’ (không phải trong hình thức biết), đó là ý hệ, tức cái từ đó nghệ thuật được sản sinh ra, là cái nghệ thuật tắm mình ở trong đó, là cái từ nó nghệ thuật tách mình ra với tư cách là nghệ thuật, và là cái nghệ thuật ám chỉ đến. Macherey đã chỉ ra điều này rất rõ trong trường hợp của Tolstoï, qua việc mở rộng các phân tích của Lenin. Balzac và Solzhenitsyn mang lại cho ta một ‘cái nhìn’ về ý hệ mà tác phẩm của họ không ngừng ám chỉ, và từ ý hệ ấy nó không ngừng được nuôi dưỡng, một cái nhìn giả định phải có sự lùi lại, sự gián cách nội tại đối với chính cái ý hệ mà từ đó tiểu thuyết của họ sinh ra. Họ làm cho ta “tri giác” (chứ không phải làm cho ta biết) theo cách nào đó từ bên trong, bằng một khoảng cách nội tại, chính ý hệ chứa đựng chúng.

Những sự phân biệt này, không chỉ đơn giản là những sắc thái mà còn là những sự khác biệt cụ thể, về mặt nguyên tắc hẳn sẽ cho phép ta giải quyết một số vấn đề.

Trước hết, vấn đề “các quan hệ” giữa nghệ thuật và khoa học. Cả Balzac lẫn Solzhenitsyn đều không mang lại cho ta bất kỳ nhận thức nào về thế giới mà họ miêu tả, họ chỉ làm cho ta ‘thấy’, ‘tri giác’ và ‘cảm nhận’ thực tại của ý hệ của thế giới đó. Khi nói về ý hệ, ta nên biết rằng ý hệ thâm nhập vào trong toàn bộ hoạt động của con người, rằng nó đồng nhất với chính cái “sống trải” (“vécu”) của sự hiện hữu của con người: đó là lý do tại sao hình thức trong đó ý hệ ‘được mang lại để ta thấy’ trong các tiểu thuyết lớn đều có nội dung là cái “sống trải” của các cá nhân. Cái “sống trải” này không phải là cái được mang lại (le donné), cái được mang lại từ một “thực tại” thuần túy, mà là cái “sống trải” tự phát của ý hệ trong mối quan hệ riêng của nó với cái hiện tồn (réel). Đây là một nhận xét quan trọng, vì nó cho phép ta hiểu rằng nghệ thuật không xem xét một thực tại nào dành riêng cho nó cả, tức không xem xét lãnh vực riêng biệt nào của thực tại mà nó có độc quyền (đấy là điều bạn muốn hàm ý khi bạn nói rằng “cùng với nghệ thuật, nhận thức trở thành con người”, rằng đối tượng của nghệ thuật là “cái cá nhân”), trong khi đó khoa học xem xét lãnh vực khác của thực tại (tức là đối lập với “cái sống trải” và với “cái cá nhân”: sự trừu tượng hóa của các cấu trúc). Ý hệ cũng là đối tượng của khoa học, cái “sống trải” cũng là đối tượng của khoa học, cái “cá nhân” cũng là đối tượng của khoa học. Sự khác biệt thực sự giữa nghệ thuật và khoa học nằm ở hình thức riêng biệt trong đó chúng mang lại cho ta cùng một đối tượng theo các cách thức rất khác nhau: nghệ thuật trong hình thức “thấy”, và “tri giác” hay “cảm”, khoa học trong hình thức của nhận thức (theo nghĩa nghiêm ngặt của từ: bằng các khái niệm).

Cùng một điều nhưng ta có thể nói bằng nhiều lối diễn đạt khác nhau. Nếu Solzhenitsyn “làm cho ta thấy” cái “sống trải” (theo nghĩa được định nghĩa ở trên) của “sự sùng bái cá nhân” và những hệ quả của nó, thì đó không phải là ông mang lại cho ta sự nhận thức về chúng: nhận thức này là nhận thức khái niệm về các cơ chế phức tạp mà điểm cuối của chúng là sản xuất ra “cái sống trải” mà tiểu thuyết của Solzhenitsyn bàn luận. Nếu muốn dùng ngôn ngữ của Spinoza ở đây nữa, tôi sẽ nói rằng nghệ thuật làm cho ta “thấy” “những kết luận không có tiền đề”, trong khi đó, nhận thức đưa ta thâm nhập vào cơ chế sản xuất ra “các kết luận” từ “các tiền đề”. Đây là điểm phân biệt quan trọng, vì nó cho phép ta hiểu rằng một tiểu thuyết viết về “sự sùng bái”, dù rất sâu sắc, có thể khiến ta chú ý đến các hệ quả “sống trải” của sự sùng bái, chứ không thể mang lại sự hiểu biết về nó; ta có thể đặt ra câu hỏi về “sự sùng bái” theo chương trình nghị sự, chứ không thể xác định các phương tiện cho phép nó khắc phục các hệ quả này.

Theo cách tương tự, những nguyên tắc sơ đẳng này có thể cho phép ta chỉ ra đường hướng theo đó ta có thể hy vọng có câu trả lời cho câu hỏi khác mà bạn nêu ra: Bất chấp những lựa chọn chính trị cá nhân của ông, Balzac làm thế nào “để ta thấy” trong hình thức phê phán cái kinh nghiệm “sống trải” về xã hội tư bản? Tôi không nghĩ ta có thể nói, như cách của bạn, rằng ông ấy “buộc phải, do logic nghệ thuật của ông, từ bỏ những quan niệm chính trị nào đó trong tác phẩm của mình với tư cách là một tiểu thuyết gia”. Trái lại, chúng ta đều biết Balzac không bao giờ từ bỏ các lập trường chính trị của ông. Chúng ta cũng biết: các lập trường chính trị phản động của chính ông giữ vai trò quyết định trong sự sản xuất ra nội dung của tác phẩm ông. Đây chắc chắn là một nghịch lý, nhưng thực tế là như vậy, và lịch sử đã cung cấp cho ta nhiều ví dụ mà Marx khiến ta phải lưu ý (về Balzac, tôi gợi ý cho bạn bài báo của R. Fayolle trong số đặc biệt của tạp chí Europe năm 1965). Đây là những trường hợp xuyên tạc ý nghĩa rất thường xuyên trong phép biện chứng của các ý hệ. Hãy đọc những gì Lénine viết về Tolstoï (trong bài báo của Macherey): lập trường ý hệ cá nhân của Tolstoï là một phần cấu thành của các nguyên nhân sâu xa của nội dung tác phẩm của ông. Thực tế là nội dung tác phẩm của Balzac và Tolstoï bị “tách ra” khỏi ý hệ chính trị của họ và theo cách nào đó làm cho ta “thấy” nó từ bên ngoài, làm cho ta “tri giác” nó từ sự gián cách bên trong ý hệ này, lấy chính ý hệ đó làm điều kiện tiên quyết. Chắc chắn ta có thể nói rằng chính “tác động/hệ quả” của nghệ thuật của họ với tư cách các tiểu thuyết gia đã tạo ra sự gián cách này, nội tại trong ý hệ của họ, tức sự gián cách để ta có thể “tri giác” nó, chứ không thể nói như bạn rằng, nghệ thuật “có logic của riêng nó”, và cái logic ấy buộc Balzac phải từ bỏ các quan niệm chính trị của mình. Trái lại, chính vì giữ lấy chúng mà ông mới có thể sản xuất ra tác phẩm của mình, chính vì gắn chặt với ý hệ chính trị của mình mà ông mới có thể tạo ra trong nó “sự gián cách” nội tại này, và sự gián cách ấy sẽ mang lại cho ta “cái nhìn” phê phán về nó.

Như bạn thấy, để có thể trả lời phần lớn các câu hỏi do sự hiện hữu và bản tính đặc biệt của nghệ thuật đặt ra cho ta, ta buộc phải sản xuất ra một nhận thức (khoa học) thỏa ứng về các tiến trình tạo ra ‘tác động/hiệu ứng thẩm mỹ’ của một tác phẩm nghệ thuật. Nói cách khác, để trả lời câu hỏi về mối quan hệ giữa nghệ thuật và nhận thức, ta phải sản xuất ra một nhận thức về nghệ thuật.

Bạn ý thức rõ về tính tất yếu này. Nhưng bạn cũng phải biết rằng về vấn đề này chúng ta còn một chặng đường dài. Sự công nhận (thậm chí là sự công nhận trên bình diện chính trị) về sự hiện hữu và tầm quan trọng của nghệ thuật không cấu tạo nên sự nhận thức về nghệ thuật. Thậm chí, tôi còn nghĩ rằng ta không thể coi các văn bản mà bạn đề cập4, kể cả Joliot-Curie do Marcenac viện dẫn5, là những khởi đầu của nhận thức. Tôi xin có đôi lời về câu được gán cho Joliot-Curie, câu này chứa hệ thuật ngữ: “sáng tạo thẩm mỹ, sáng tạo khoa học”, chắc chắn là rất thông dụng, nhưng theo ý tôi, hệ thuật ngữ này cần phải được loại bỏ và thay bằng hệ thuật ngữ khác, để có thể đặt vấn đề về nhận thức nghệ thuật một cách thích hợp. Tôi biết rằng người nghệ sĩ, cũng như những người yêu nghệ thuật, đã tự diễn tả mình một cách tự phát bằng lời lẽ “sáng tạo”, v.v. Đấy là một ngôn ngữ “tự phát”, nhưng theo Marx và Lénine, chúng ta biết rằng bất cứ ngôn ngữ tự phát nào cũng đều là ngôn ngữ có tính ý hệ, rằng nó chuyên chở một ý hệ, ở đây là ý hệ của nghệ thuật và của hoạt động sản xuất ra các tác động/hiệu ứng thẩm mỹ. Giống như mọi nhận thức, nhận thức về nghệ thuật tiền giả định một sự đoạn tuyệt tiên quyết với ngôn ngữ của tính tự phát ý hệ (spontaneité idéologique) và sự cấu tạo một hệ thống khái niệm khoa học để thay thế nó. Cần phải ý thức rõ về tính tất yếu của sự đoạn tuyệt này với ý hệ để có thể tiến hành xây dựng nên tòa nhà của nhận thức nghệ thuật.

Có lẽ ở đây tôi phải hết sức dè chừng về những gì bạn nói. Có lẽ tôi chưa nói chính xác về điều bạn muốn hay ắt muốn nói, mà về điều bạn thực sự nói. Khi bạn đem “sự phản tư nghiêm ngặt về các khái niệm của chủ nghĩa Marx” đối lập với “thứ khác”, cụ thể là với cái mà nghệ thuật mang lại cho ta, tôi tin rằng bạn đang thiết lập một sự so sánh hoặc không hoàn chỉnh. Vì trên thực tế nghệ thuật cung cấp cho ta cái gì đó khác với khoa học, không có sự đối lập nào giữa chúng cả, chỉ có sự khác biệt mà thôi. Trái lại, nếu đó là vấn đề nhận thức nghệ thuật, thì nhất định ta phải bắt đầu bằng “sự phản tư nghiêm ngặt về các khái niệm cơ bản của chủ nghĩa Marx”: không có cách nào khác. Và khi tôi nói: “ta phải bắt đầu…” thì chỉ nói thôi chưa đủ, mà còn phải thực hiện điều đó. Nếu không, ta có thể dễ dàng thoát mình ra khỏi nó bằng việc công nhận qua loa, kiểu như “Althusser chủ trương trở lại với việc nghiên cứu chặt chẽ lý thuyết mác-xít. Tôi đồng ý rằng điều này là cần thiết, nhưng như thế là chưa đủ”. Phản hồi của tôi với câu nói trên chỉ là một phê phán thực sự: có một cách tuyên bố yêu sách “không thể tránh khỏi” nào đó, yêu sách ấy cốt ở chỗ tự nó miễn trừ nó, miễn trừ khỏi sự xem xét cẩn trọng về tất cả những hàm ý và hệ quả của nó - bằng những lời khen cho có để chuyển nhanh sang “thứ khác”... Thế thì, tôi tin rằng cách duy nhất hy vọng có thể đạt đến một nhận thức thực sự về nghệ thuật, đi sâu vào tính đặc sắc của tác phẩm nghệ thuật, nhận biết các cơ chế tạo ra “tác động/hiệu ứng thẩm mỹ”, đó chính là cần đi chậm rãi thật lâu với sự chú tâm cao nhất đối với “các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Marx”, đừng hấp tấp “chuyển sang thứ khác”, bởi vì nếu chuyển quá nhanh sang thứ khác, ta sẽ không đạt đến sự nhận thức nghệ thuật, mà chỉ rơi vào một ý hệ về nghệ thuật: như ý hệ thuyết nhân bản tiềm tàng chẳng hạn, đó là ý hệ có thể được dẫn đến bởi những gì bạn nói về mối quan hệ giữa nghệ thuật và “con người”, và về “sự sáng tạo” nghệ thuật, v.v...

Nếu phải dùng đến (và đây là công việc lâu dài và gian khổ) “các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Marx” để có thể [tư duy] một cách đúng đắn, trong các khái niệm không phải là các khái niệm có tính ý hệ về sự tự phát thẩm mỹ, mà là các khái niệm khoa học thỏa ứng với đối tượng của chúng, và vì thế là các khái niệm hoàn toàn mới, thì đấy không phải là để bước qua nghệ thuật một cách lặng lẽ hay hy sinh nó cho khoa học, đấy hoàn toàn chỉ là để nhận thức nó, và trả lại cho nó cái nó có quyền được hưởng.

L.A
(TCSH435/05-2025)

----------------
1 Xem tạp chí La Nouvelle Critique, no. 175, April 1966, pp. 136-41.
2 La Nouvelle Critique, no. 164, March 1965; Về Marx, pp. 242-7.
3 Đã in trong Pierre Macherey, Về một lí thuyết sản xuất văn học, Paris, 1966, pp. 125-57.
4 [Jean Marcenac, Elsa Triolet, Lukács, và những người khác.]
5 [Jean Marcenac, Les Lettres Françaises, 1966. ‘Tôi luôn hối tiếc một sự thật là F. Joliot-Curie chưa bao giờ theo đuổi dự án mà anh ta đã khuyên tôi lúc Eluard chết, dự án nghiên cứu so sánh sáng tạo thi ca và sáng tạo khoa học, mà anh ấy nghĩ là rốt cuộc sẽ chứng minh bản sắc qua tiến trình của chúng.’]

_____________

Hoàng Phong Tuấn dịch từ bản tiếng Anh: Louis Althusser, 1971, Lenin and Philosophy and Other Essays, translated from the French by Ben Brewster, London and New York: Monthly Review Press. Đinh Hồng Phúc hiệu đính từ nguyên bản tiếng Pháp: http://ressources-socius.info/index.php/actualites/143-nouvelle-reedition-louisalthusser-lettre-sur-la-connaissance-de-l-art.

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).

  • PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H

  • MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.

  • INRASARATham luận tại Hội thảo “Nhà văn với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”, Hội Nhà văn Việt Nam, Đồng Nai, 8-1-2009.

  • HOÀNG NGỌC HIẾNWallace Stevens ví hành trình của những nghệ sĩ Tiên phong (hoặc Tiền vệ) của chủ nghĩa hiện đại những thập kỷ đầu thế kỷ XX như những cuộc phiêu lưu của những nhà thám hiểm núi lửa, họ đã đến núi lửa, “đã gửi về tấm bưu ảnh cuối cùng” và lúc này không có ước vọng gì hơn là trở về nhà.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Nhà thơ - Người đọc: Niềm khắc khoải tri âmKhi nói về mối quan hệ giữa nhà thơ và độc giả, Edward Hirsch đã viết: “Nhiều nhà thơ đã nắm lấy ý Kinh Thánh Tân Ước “Khởi thuỷ là lời”, nhưng tôi thích ý kiến của Martin Buber trong “Tôi và bạn” hơn rằng: “Khởi thuỷ là những mối quan hệ” (1).

  • VIỆT HÙNGCông tác lý luận phê bình văn học nghệ thuật đang là mối quan tâm lo lắng của giới chuyên môn, cũng như của đại đa số công chúng, những người yêu văn học nghệ thuật. Tình trạng phê bình chưa theo kịp sáng tạo, chưa gây được kích thích cho sáng tạo vẫn còn là phổ biến; thậm chí nhiều khi hoặc làm nhụt ý chí của người sáng tạo, hoặc đề cao thái quá những tác phẩm nghệ thuật rất ư bình thường, gây sự hiểu nhầm cho công chúng.

  • HẢI TRUNGVũ Duy Thanh (1811 - 1863) quê ở xã Kim Bồng, huyện An Khánh, tỉnh Ninh Bình là bảng nhãn đỗ đầu trong khoa thi Chế khoa Bác học Hoành tài năm Tự Đức thứ tư (1851). Người đương thời thường gọi ông là Bảng Bồng, hay là Trạng Bồng.

  • NGUYỄN SƠNTrên tuần báo Người Hà Nội số 35, ra ngày 01-9-2001, bạn viết Lê Quý Kỳ tỏ ý khiêm nhường khi lạm bàn một vấn đề lý luận cực khó Thử bàn về cái tôi trong văn học. Anh mới chỉ "thử bàn" thôi chứ chưa bàn thật, thảo nào!... Sau khi suy đi tính lại, anh chỉnh lý tí tẹo tiêu đề bài báo thành Bàn về "cái tôi"trong văn học và thêm phần "lạc khoản": Vinh 12-2001, rồi chuyển in trên Tạp chí Văn (Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh), số 4 (Bộ mới, tháng 3-4)-2002. Trong bài trao đổi này chúng tôi trích dẫn căn cứ theo nguyên văn bài báo đã in lần đầu (và về cơ bản không khác với khi đưa in lại).

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNGCùng với sự phát triển của một thế kỉ văn học dân tộc, lí luận văn học ở Việt Nam cũng đã có những thành tựu, khẳng định sự trưởng thành của tư duy lí luận văn học hiện đại.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNTrong vài ba thập niên đầu thế kỷ XX, trung xu thế tìm đường hiện đại hóa văn xuôi chữ quốc ngữ, các thể tài tiểu thuyết, phóng sự được một số nhà văn dụng bút thể nghiệm.

  • L.T.S: Trong ba ngày từ 03 đến 05 tháng 5 năm 2005, tại thành phố Huế đã diễn ra hoạt động khoa học quốc tế có ý nghĩa: Hội thảo khoa học Tác phẩm của F. Jullien với độc giả Việt Nam do Đại học Huế và Đại học Chales- de-Gaulle, Lille 3 tổ chức, cùng sự phối hợp của Đại sứ quán Pháp ở Việt Nam và Agence Universitaire  francophone (AUF). Hội thảo có 30 tham luận của nhiều giáo sư, học giả, nhà nghiên cứu Việt Nam, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.

  • NGUYÊN NGỌC1- Trong các tác phẩm của F. Jullien đã được giới thiệu ở Việt , tới nay đã được đến mười quyển, tôi chỉ dịch có một cuốn “Một bậc minh triết thì vô ý” (Un sage est sans idée). Tôi dịch cuốn này là theo gợi ý của anh Hoàng Ngọc Hiến. Khi in, cũng theo đề nghị của anh Hiến và của nhà xuất bản, cuốn sách đã được đổi tên ở ngoài bìa là “Minh triết phương Đông và triết học phương Tây”, các anh bảo như vậy “sẽ dễ bán hơn” (!).

  • ĐÀO HÙNGTrước khi dịch cuốn Bàn về chữ Thời (Du temps-éléments d′une philosophie du vivre),  tôi đã có dịp gặp François Jullien, được nghe ông trình bày những vấn đề nghiên cứu triết học Trung Hoa của ông và trao đổi về việc ứng dụng của triết học trong công việc thực tế. Nhưng lúc bấy giờ thời gian không cho phép tìm hiểu kỹ hơn, nên có nhiều điều chưa cảm thụ được hết.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTheo định nghĩa chung, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các sự việc mang tính chất xã hội. Mặc dù cội nguồn của nó phải kể từ thời Aristote của Hy Lạp, nhưng với tư cách là một ngành khoa học, thì xã hội học vẫn là một bộ môn khoa học khá mới mẻ. Ngay cả tên gọi của nó cũng phải đến năm 1836 mới được nhà triết học người Pháp Auguste Comte đặt ra.

  • MAI VĂN HOANƯớc lệ được xem là một đặc điểm thi pháp của văn học Trung đại. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng khá nhiều bút pháp ước lệ. Có điều nhà thơ sử dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo nên tránh được sự sáo mòn, nhàm chán. Không những thế bút pháp ước lệ của Nguyễn Du còn góp phần diễn tả một cách tinh tế, sâu sắc tâm trạng nhân vật. Điều đó thể hiện rất rõ qua cảnh Thuý Kiều đưa tiễn Thúc Sinh về tự thú với Hoạn Thư.

  • HÀ VĂN LƯỠNG  Thơ haiku Nhật bản là một sản phẩm tinh thần quý giá của đời sống văn hoá đất nước Phù Tang. Nó là một thể thơ đặc biệt trong thơ cổ truyền của Nhật bản. Phần lớn các nhà thơ haiku đều là các thiền sư. Chính những nhà thơ thiền sư này đã đưa thiền vào thơ. Vì thế, họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng bằng tâm hồn của người nghệ sĩ.

  • TRẦN THANH HÀVăn học bao giờ cũng gắn bó với thời đại và con người. Đặc biệt trong tiến trình đổi mới hôm nay, xu thế hoà nhập với văn hoá phương Tây đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn học Việt . Bởi nó đang tác động tới "ý thức chủ thể" của nhà văn.