Văn bản được dịch sau đây là tài liệu kinh điển thể hiện ngắn gọn và súc tích quan niệm của ông về sự tái sản xuất ý hệ của văn học nghệ thuật. Vốn là một lá thư được đăng trên La Nouvelle Critique năm 1966, văn bản này về sau được in lại trong tuyển tập các công trình của ông, được dịch sang tiếng Anh Lenin and Philosophy and Other Essays.
Hoàng Phong Tuấn dịch và giới thiệu
LOUIS ALTHUSSER
La Nouvelle Critique đã gởi cho tôi lá thư của bạn1. Bạn sẵn lòng cho phép tôi nếu không phúc đáp hết những câu hỏi đã nêu ra trong thư thì ít ra cũng thêm vài ý bình luận vào dòng suy tưởng của bạn được chứ?
Trước hết, bạn nên biết rằng tôi hoàn toàn hiểu rõ bài viết của tôi về Thuyết Nhân bản là rất sơ lược2. Như bạn thấy đó, mặt bất lợi của nó là đã đưa ra một ý niệm “đại khái” về ý hệ mà không đi vào phân tích chi tiết. Vì nó không nói gì về nghệ thuật nên tôi nhận thấy rằng ta có thể tự hỏi nghệ thuật nên hay không nên được sắp đặt như thế trong các ý hệ, nói cho thật chính xác, nghệ thuật và ý hệ có phải là một và chỉ là một thứ hay không. Chính vì thế mà, theo cảm tưởng của tôi, bạn đã nỗ lực diễn giải sự im lặng của tôi [những gì tôi không nói].
Vấn đề mối quan hệ giữa nghệ thuật và ý hệ là vấn đề rất phức tạp và rất khó khăn. Tuy nhiên, tôi có thể cho bạn biết những đường hướng nghiên cứu của tôi. Tôi không xếp nghệ thuật đích thực vào lĩnh vực các ý hệ, cho dù nghệ thuật có mối quan hệ hoàn toàn đặc thù và đặc biệt với ý hệ. Nếu bạn muốn tự tạo ra một ý niệm nào đó về các yếu tố đầu tiên của luận đề này và những bước phát triển rất phức tạp mà nó hứa hẹn, tôi khuyên bạn nên đọc cẩn thận bài báo “Lenin, nhà phê bình Tolstoï” của Pierre Macherey, trong La Pensée, số 121, năm 19653. Dĩ nhiên, bài báo này chỉ là khởi đầu, nhưng nó đặt ra vấn đề về mối quan hệ giữa nghệ thuật và ý hệ, và tính đặc sắc (spécialité) của nghệ thuật. Đây chính là đường hướng mà chúng tôi đang tiến hành, và chúng tôi hy vọng sẽ công bố các công trình nghiên cứu quan trọng về chủ đề này trong vài tháng tới.
Bài báo đó cũng sẽ đem đến cho bạn ý niệm đầu tiên về mối quan hệ giữa nghệ thuật và nhận thức. Nghệ thuật (tôi đang nói về nghệ thuật đích thực, chứ không phải những tác phẩm mức độ trung bình hay tầm thường) không mang lại cho chúng ta sự nhận thức theo nghĩa nghiêm ngặt của từ này, do đó nó không thay thế cho nhận thức (theo nghĩa hiện đại: nhận thức khoa học), tuy thế điều mà nó mang lại cho chúng ta là giữ một mối quan hệ đặc biệt với nhận thức. Mối quan hệ này không phải là mối quan hệ đồng nhất mà là mối quan hệ khác biệt. Để tôi giải thích điều này. Tôi tin rằng đặc tính của nghệ thuật là ‘cho ta thấy’, ‘cho ta tri giác’, ‘cho ta cảm nhận’ điều gì đó ám chỉ thực tại. Nếu ta xem xét trường hợp của tiểu thuyết, Balzac hoặc Solzhenitsyn, như bạn đã viện dẫn, họ cho ta thấy, cho ta tri giác (chứ không phải cho ta biết) điều gì đó ám chỉ thực tại.
Ta cần phải hiểu những từ ngữ làm nên định nghĩa ban đầu tạm thời này theo nghĩa đen để tránh sa vào việc đồng nhất cái mà nghệ thuật mang lại cho ta với cái mà khoa học mang lại cho ta. Cái mà nghệ thuật làm ta thấy, và do đó mang lại cho ta trong hình thức ‘thấy’, ‘tri giác’ và ‘cảm nhận’ (không phải trong hình thức biết), đó là ý hệ, tức cái từ đó nghệ thuật được sản sinh ra, là cái nghệ thuật tắm mình ở trong đó, là cái từ nó nghệ thuật tách mình ra với tư cách là nghệ thuật, và là cái nghệ thuật ám chỉ đến. Macherey đã chỉ ra điều này rất rõ trong trường hợp của Tolstoï, qua việc mở rộng các phân tích của Lenin. Balzac và Solzhenitsyn mang lại cho ta một ‘cái nhìn’ về ý hệ mà tác phẩm của họ không ngừng ám chỉ, và từ ý hệ ấy nó không ngừng được nuôi dưỡng, một cái nhìn giả định phải có sự lùi lại, sự gián cách nội tại đối với chính cái ý hệ mà từ đó tiểu thuyết của họ sinh ra. Họ làm cho ta “tri giác” (chứ không phải làm cho ta biết) theo cách nào đó từ bên trong, bằng một khoảng cách nội tại, chính ý hệ chứa đựng chúng.
Những sự phân biệt này, không chỉ đơn giản là những sắc thái mà còn là những sự khác biệt cụ thể, về mặt nguyên tắc hẳn sẽ cho phép ta giải quyết một số vấn đề.
Trước hết, vấn đề “các quan hệ” giữa nghệ thuật và khoa học. Cả Balzac lẫn Solzhenitsyn đều không mang lại cho ta bất kỳ nhận thức nào về thế giới mà họ miêu tả, họ chỉ làm cho ta ‘thấy’, ‘tri giác’ và ‘cảm nhận’ thực tại của ý hệ của thế giới đó. Khi nói về ý hệ, ta nên biết rằng ý hệ thâm nhập vào trong toàn bộ hoạt động của con người, rằng nó đồng nhất với chính cái “sống trải” (“vécu”) của sự hiện hữu của con người: đó là lý do tại sao hình thức trong đó ý hệ ‘được mang lại để ta thấy’ trong các tiểu thuyết lớn đều có nội dung là cái “sống trải” của các cá nhân. Cái “sống trải” này không phải là cái được mang lại (le donné), cái được mang lại từ một “thực tại” thuần túy, mà là cái “sống trải” tự phát của ý hệ trong mối quan hệ riêng của nó với cái hiện tồn (réel). Đây là một nhận xét quan trọng, vì nó cho phép ta hiểu rằng nghệ thuật không xem xét một thực tại nào dành riêng cho nó cả, tức không xem xét lãnh vực riêng biệt nào của thực tại mà nó có độc quyền (đấy là điều bạn muốn hàm ý khi bạn nói rằng “cùng với nghệ thuật, nhận thức trở thành con người”, rằng đối tượng của nghệ thuật là “cái cá nhân”), trong khi đó khoa học xem xét lãnh vực khác của thực tại (tức là đối lập với “cái sống trải” và với “cái cá nhân”: sự trừu tượng hóa của các cấu trúc). Ý hệ cũng là đối tượng của khoa học, cái “sống trải” cũng là đối tượng của khoa học, cái “cá nhân” cũng là đối tượng của khoa học. Sự khác biệt thực sự giữa nghệ thuật và khoa học nằm ở hình thức riêng biệt trong đó chúng mang lại cho ta cùng một đối tượng theo các cách thức rất khác nhau: nghệ thuật trong hình thức “thấy”, và “tri giác” hay “cảm”, khoa học trong hình thức của nhận thức (theo nghĩa nghiêm ngặt của từ: bằng các khái niệm).
Cùng một điều nhưng ta có thể nói bằng nhiều lối diễn đạt khác nhau. Nếu Solzhenitsyn “làm cho ta thấy” cái “sống trải” (theo nghĩa được định nghĩa ở trên) của “sự sùng bái cá nhân” và những hệ quả của nó, thì đó không phải là ông mang lại cho ta sự nhận thức về chúng: nhận thức này là nhận thức khái niệm về các cơ chế phức tạp mà điểm cuối của chúng là sản xuất ra “cái sống trải” mà tiểu thuyết của Solzhenitsyn bàn luận. Nếu muốn dùng ngôn ngữ của Spinoza ở đây nữa, tôi sẽ nói rằng nghệ thuật làm cho ta “thấy” “những kết luận không có tiền đề”, trong khi đó, nhận thức đưa ta thâm nhập vào cơ chế sản xuất ra “các kết luận” từ “các tiền đề”. Đây là điểm phân biệt quan trọng, vì nó cho phép ta hiểu rằng một tiểu thuyết viết về “sự sùng bái”, dù rất sâu sắc, có thể khiến ta chú ý đến các hệ quả “sống trải” của sự sùng bái, chứ không thể mang lại sự hiểu biết về nó; ta có thể đặt ra câu hỏi về “sự sùng bái” theo chương trình nghị sự, chứ không thể xác định các phương tiện cho phép nó khắc phục các hệ quả này.
Theo cách tương tự, những nguyên tắc sơ đẳng này có thể cho phép ta chỉ ra đường hướng theo đó ta có thể hy vọng có câu trả lời cho câu hỏi khác mà bạn nêu ra: Bất chấp những lựa chọn chính trị cá nhân của ông, Balzac làm thế nào “để ta thấy” trong hình thức phê phán cái kinh nghiệm “sống trải” về xã hội tư bản? Tôi không nghĩ ta có thể nói, như cách của bạn, rằng ông ấy “buộc phải, do logic nghệ thuật của ông, từ bỏ những quan niệm chính trị nào đó trong tác phẩm của mình với tư cách là một tiểu thuyết gia”. Trái lại, chúng ta đều biết Balzac không bao giờ từ bỏ các lập trường chính trị của ông. Chúng ta cũng biết: các lập trường chính trị phản động của chính ông giữ vai trò quyết định trong sự sản xuất ra nội dung của tác phẩm ông. Đây chắc chắn là một nghịch lý, nhưng thực tế là như vậy, và lịch sử đã cung cấp cho ta nhiều ví dụ mà Marx khiến ta phải lưu ý (về Balzac, tôi gợi ý cho bạn bài báo của R. Fayolle trong số đặc biệt của tạp chí Europe năm 1965). Đây là những trường hợp xuyên tạc ý nghĩa rất thường xuyên trong phép biện chứng của các ý hệ. Hãy đọc những gì Lénine viết về Tolstoï (trong bài báo của Macherey): lập trường ý hệ cá nhân của Tolstoï là một phần cấu thành của các nguyên nhân sâu xa của nội dung tác phẩm của ông. Thực tế là nội dung tác phẩm của Balzac và Tolstoï bị “tách ra” khỏi ý hệ chính trị của họ và theo cách nào đó làm cho ta “thấy” nó từ bên ngoài, làm cho ta “tri giác” nó từ sự gián cách bên trong ý hệ này, lấy chính ý hệ đó làm điều kiện tiên quyết. Chắc chắn ta có thể nói rằng chính “tác động/hệ quả” của nghệ thuật của họ với tư cách các tiểu thuyết gia đã tạo ra sự gián cách này, nội tại trong ý hệ của họ, tức sự gián cách để ta có thể “tri giác” nó, chứ không thể nói như bạn rằng, nghệ thuật “có logic của riêng nó”, và cái logic ấy buộc Balzac phải từ bỏ các quan niệm chính trị của mình. Trái lại, chính vì giữ lấy chúng mà ông mới có thể sản xuất ra tác phẩm của mình, chính vì gắn chặt với ý hệ chính trị của mình mà ông mới có thể tạo ra trong nó “sự gián cách” nội tại này, và sự gián cách ấy sẽ mang lại cho ta “cái nhìn” phê phán về nó.
Như bạn thấy, để có thể trả lời phần lớn các câu hỏi do sự hiện hữu và bản tính đặc biệt của nghệ thuật đặt ra cho ta, ta buộc phải sản xuất ra một nhận thức (khoa học) thỏa ứng về các tiến trình tạo ra ‘tác động/hiệu ứng thẩm mỹ’ của một tác phẩm nghệ thuật. Nói cách khác, để trả lời câu hỏi về mối quan hệ giữa nghệ thuật và nhận thức, ta phải sản xuất ra một nhận thức về nghệ thuật.
Bạn ý thức rõ về tính tất yếu này. Nhưng bạn cũng phải biết rằng về vấn đề này chúng ta còn một chặng đường dài. Sự công nhận (thậm chí là sự công nhận trên bình diện chính trị) về sự hiện hữu và tầm quan trọng của nghệ thuật không cấu tạo nên sự nhận thức về nghệ thuật. Thậm chí, tôi còn nghĩ rằng ta không thể coi các văn bản mà bạn đề cập4, kể cả Joliot-Curie do Marcenac viện dẫn5, là những khởi đầu của nhận thức. Tôi xin có đôi lời về câu được gán cho Joliot-Curie, câu này chứa hệ thuật ngữ: “sáng tạo thẩm mỹ, sáng tạo khoa học”, chắc chắn là rất thông dụng, nhưng theo ý tôi, hệ thuật ngữ này cần phải được loại bỏ và thay bằng hệ thuật ngữ khác, để có thể đặt vấn đề về nhận thức nghệ thuật một cách thích hợp. Tôi biết rằng người nghệ sĩ, cũng như những người yêu nghệ thuật, đã tự diễn tả mình một cách tự phát bằng lời lẽ “sáng tạo”, v.v. Đấy là một ngôn ngữ “tự phát”, nhưng theo Marx và Lénine, chúng ta biết rằng bất cứ ngôn ngữ tự phát nào cũng đều là ngôn ngữ có tính ý hệ, rằng nó chuyên chở một ý hệ, ở đây là ý hệ của nghệ thuật và của hoạt động sản xuất ra các tác động/hiệu ứng thẩm mỹ. Giống như mọi nhận thức, nhận thức về nghệ thuật tiền giả định một sự đoạn tuyệt tiên quyết với ngôn ngữ của tính tự phát ý hệ (spontaneité idéologique) và sự cấu tạo một hệ thống khái niệm khoa học để thay thế nó. Cần phải ý thức rõ về tính tất yếu của sự đoạn tuyệt này với ý hệ để có thể tiến hành xây dựng nên tòa nhà của nhận thức nghệ thuật.
Có lẽ ở đây tôi phải hết sức dè chừng về những gì bạn nói. Có lẽ tôi chưa nói chính xác về điều bạn muốn hay ắt muốn nói, mà về điều bạn thực sự nói. Khi bạn đem “sự phản tư nghiêm ngặt về các khái niệm của chủ nghĩa Marx” đối lập với “thứ khác”, cụ thể là với cái mà nghệ thuật mang lại cho ta, tôi tin rằng bạn đang thiết lập một sự so sánh hoặc không hoàn chỉnh. Vì trên thực tế nghệ thuật cung cấp cho ta cái gì đó khác với khoa học, không có sự đối lập nào giữa chúng cả, chỉ có sự khác biệt mà thôi. Trái lại, nếu đó là vấn đề nhận thức nghệ thuật, thì nhất định ta phải bắt đầu bằng “sự phản tư nghiêm ngặt về các khái niệm cơ bản của chủ nghĩa Marx”: không có cách nào khác. Và khi tôi nói: “ta phải bắt đầu…” thì chỉ nói thôi chưa đủ, mà còn phải thực hiện điều đó. Nếu không, ta có thể dễ dàng thoát mình ra khỏi nó bằng việc công nhận qua loa, kiểu như “Althusser chủ trương trở lại với việc nghiên cứu chặt chẽ lý thuyết mác-xít. Tôi đồng ý rằng điều này là cần thiết, nhưng như thế là chưa đủ”. Phản hồi của tôi với câu nói trên chỉ là một phê phán thực sự: có một cách tuyên bố yêu sách “không thể tránh khỏi” nào đó, yêu sách ấy cốt ở chỗ tự nó miễn trừ nó, miễn trừ khỏi sự xem xét cẩn trọng về tất cả những hàm ý và hệ quả của nó - bằng những lời khen cho có để chuyển nhanh sang “thứ khác”... Thế thì, tôi tin rằng cách duy nhất hy vọng có thể đạt đến một nhận thức thực sự về nghệ thuật, đi sâu vào tính đặc sắc của tác phẩm nghệ thuật, nhận biết các cơ chế tạo ra “tác động/hiệu ứng thẩm mỹ”, đó chính là cần đi chậm rãi thật lâu với sự chú tâm cao nhất đối với “các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Marx”, đừng hấp tấp “chuyển sang thứ khác”, bởi vì nếu chuyển quá nhanh sang thứ khác, ta sẽ không đạt đến sự nhận thức nghệ thuật, mà chỉ rơi vào một ý hệ về nghệ thuật: như ý hệ thuyết nhân bản tiềm tàng chẳng hạn, đó là ý hệ có thể được dẫn đến bởi những gì bạn nói về mối quan hệ giữa nghệ thuật và “con người”, và về “sự sáng tạo” nghệ thuật, v.v...
Nếu phải dùng đến (và đây là công việc lâu dài và gian khổ) “các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Marx” để có thể [tư duy] một cách đúng đắn, trong các khái niệm không phải là các khái niệm có tính ý hệ về sự tự phát thẩm mỹ, mà là các khái niệm khoa học thỏa ứng với đối tượng của chúng, và vì thế là các khái niệm hoàn toàn mới, thì đấy không phải là để bước qua nghệ thuật một cách lặng lẽ hay hy sinh nó cho khoa học, đấy hoàn toàn chỉ là để nhận thức nó, và trả lại cho nó cái nó có quyền được hưởng.
L.A
(TCSH435/05-2025)
----------------
1 Xem tạp chí La Nouvelle Critique, no. 175, April 1966, pp. 136-41.
2 La Nouvelle Critique, no. 164, March 1965; Về Marx, pp. 242-7.
3 Đã in trong Pierre Macherey, Về một lí thuyết sản xuất văn học, Paris, 1966, pp. 125-57.
4 [Jean Marcenac, Elsa Triolet, Lukács, và những người khác.]
5 [Jean Marcenac, Les Lettres Françaises, 1966. ‘Tôi luôn hối tiếc một sự thật là F. Joliot-Curie chưa bao giờ theo đuổi dự án mà anh ta đã khuyên tôi lúc Eluard chết, dự án nghiên cứu so sánh sáng tạo thi ca và sáng tạo khoa học, mà anh ấy nghĩ là rốt cuộc sẽ chứng minh bản sắc qua tiến trình của chúng.’]
_____________
Hoàng Phong Tuấn dịch từ bản tiếng Anh: Louis Althusser, 1971, Lenin and Philosophy and Other Essays, translated from the French by Ben Brewster, London and New York: Monthly Review Press. Đinh Hồng Phúc hiệu đính từ nguyên bản tiếng Pháp: http://ressources-socius.info/index.php/actualites/143-nouvelle-reedition-louisalthusser-lettre-sur-la-connaissance-de-l-art.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGNhững cuốn sách đã giữ một vị trí đặc biệt trong thế giới tuổi thơ của tôi; trước hết là những sách giáo khoa tôi đã học trong những ngôi trường đầu tiên của đời mình, dưới thời Pháp thuộc.
NGUYỄN KHOA ĐIỀM Tìm hiểu diện mạo văn học một vùng đất là tìm hiểu những vấn đề gì?
KHẾ IÊM Hãy cứ tưởng tượng, khi hội họa mang đồ vật vào trong tranh (Pop Art, thập niên 60), và rồi tranh lại bước ra ngoài giá vẽ để đi vào thế giới hiện thực (thập niên 70), thì thơ cũng đang có những chuyển biến mới, chụp bắt yếu tố đời sống để sử dụng như yếu tố thơ.
HOÀNG TÙNG Văn học đồng tính - LGBT (lesbian, gay, bisexual, transgender) literature đã từng một thời bị coi là đề tài cấm kỵ trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, cùng với những cuộc đấu tranh về quyền con người, đấu tranh về bình đẳng giới, sự thừa nhận của xã hội đối với giới tính thứ ba, đó cũng là lúc dòng văn học dành cho người đồng tính bước từ bóng tối ra ánh sáng…
NGUYỄN VĂN TẬN - HOÀNG THỊ ANH ĐÀO Thế kỷ XV - XVII, các nước phương Tây bước vào thời kỳ tích lũy nguyên thủy tư bản, những cuộc phát kiến địa lý đã mở ra một cuộc “cách mạng thương mại” thực sự ở châu Âu và đưa đến việc thiết lập mạng lưới giao thông mậu dịch hàng hải xuyên đại dương nối liền châu Âu với phương Đông.
BỬU Ý Tháng 11-1985, Viện Hàn lâm Thụy Điển quyết định trao giải thưởng Nobel cho Claude Simon, nhà văn Pháp theo trường phái mệnh danh là tiểu thuyết mới quy tụ những tên tuổi khác như A-lanh Ro-bơ Gri-dê (Alain Robbe-Grillet - người chủ xướng và lập thuyết), Na-ta-li Xa-rốt (Nathalie Sarraute), Mi-sen Buy-to (Michel Butor), Ro-ber Panh-Jê (Robert Pinget) v.v…
NGUYỄN VĂN HẠNH …Xa rời cuộc sống, xa rời con người, xa rời chủ nghĩa nhân văn vốn là linh hồn của văn học nghệ thuật trong sáng tạo, nghiên cứu, giảng dạy văn chương là mối lo lớn và là nguyên nhân sâu xa khiến cho văn chương mất sức sống, mất sức hấp dẫn vốn có…
LƯỜNG TÚ TUẤN Mỗi ngôn ngữ tự nó là một nghệ thuật diễn đạt của tập thể. (E.Sapir)
ROLAND BARTHES Lôgic học dạy chúng ta biết cách phân biệt thích đáng ngôn ngữ-đối tượng với siêu-ngôn ngữ. Ngôn ngữ-đối tượng chính là chất liệu phục tùng sự nghiên cứu lôgic; còn siêu-ngôn ngữ là ngôn ngữ, không tránh khỏi có tính cách nhân tạo, trong đó ta tiến hành sự nghiên cứu này.
TRẦN THIỆN KHANH Chúng ta sống trong một thế giới đầy những quy ước. Có quy ước công khai, thành văn; có quy ước ngầm, bất thành văn. Quy ước nhiều và có sức mạnh đến mức chúng ta tưởng chính nó làm ra chúng ta.
TRIỀU NGUYÊN 1. Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan được một số nhà nghiên cứu xếp vào loại truyện ngắn hài hay truyện ngắn trào phúng.
- Cứ trừ dần đi dần đi, có thể còn lại là em, ôi Man Nương (Phạm Thị Hoài) - Đi tới tận cùng của cái vô thức, cùng với nhà thơ, hãy tìm thấy lại giấc mơ nguyên thủy (G. Bachelard).
NGUYỄN THỊ TỊNH THY 1. “Người trần thuật kiểu tác giả” hay “tình thế trần thuật của tác giả” là một thuật ngữ được đưa ra năm 1955 bởi nhà nghiên cứu văn học người Áo F.K.Stanzel và sau đó được tu chỉnh bởi J.Kristéva, G.Genette và J.Lintvelt.
INRASARA Khả năng nhận diện và tâm thế đón nhận cái mới ít liên quan đến thế hệ. Dù thế hệ mới nhờ ưu thế tuổi tác, dễ làm quen với cái mới, cái xa lạ. Dễ làm quen thôi, chứ chưa chắc đã chấp nhận, nhất là với cái mới trong văn chương. Sự thể cả bốn thế hệ người viết nhận định về thơ tân hình thức và sáng tác hậu hiện đại giai đoạn qua, là minh chứng(1).
TRẦN XUÂN AN …Ngẩng đầu/Im lặng/Ai hỏi nhà/Tôi chỉ xuống chân…
NGUYỄN THI VÂN Kỷ niệm 150 năm ngày sinh Tagore Trong quá trình tìm kiếm các bản dịch tiếng Hà Lan của đại thi hào Rabindranath Tagore (1861-1941) trong những năm làm việc tại Hà Lan, nghiên cứu gia Liesbeth Meyer đã phát hiện một số thư trao đổi giữa Tagore với Frederik van Eeden (1860-1932) một trong những người Hà Lan đầu tiên đã giới thiệu thơ Tagore đến với xứ xở hoa tuy líp.
PHẠM PHÚ PHONG Đối với sự tồn tại và phát triển của một nền văn học không thể không kể đến đội ngũ những người sáng tác trẻ. Đó là lực lượng sung sức, giàu nhiệt tình và báo hiệu những năng lực mới cần được liên tục bổ sung.
AN-ĐRÂY ĐÊ-MEN-CHI-ÉP(Phát biểu của nhà thơ An-đrây Đê-men-chi-ép - Tổng biên tập Tạp chí “Tuổi trẻ” trong cuộc hội thảo về thơ nhân Đại hội các nhà văn trẻ Liên Xô lần thứ VIII.)
PHAN TUẤN ANH“Ôi, có lý và phi lý lẫn lộn vào nhau, lý trí trong điên loạn” [6,39].
TRẦN THIỆN ĐẠONếu như Viện Hàn lâm Thụy Điển, đầu tháng mười năm ngoái, rốt cuộc đã trao giải Nobel 2010 cho nhà văn Pêru Mario Vargas Llosa hụt biết bao nhiêu lần trước đó(1), thì nay, Viện không còn có thể vớt vát được nữa.