Tên và chuyên đặt tên

09:38 04/09/2009
HÀ VĂN THỊNH Những cái tên - có lẽ không giản đơn như cách nói của người Nga - " Người ta gọi tôi là...”  Ở đây, lớp vỏ của ngôn từ chỉ diễn tả một khái niệm mù mờ nhất của một lượng thông tin ít nhất.Trong khi đó, có bao giờ ta nghĩ rằng một cái tên, không ít khi hàm chứa thật nhiều điều - thậm chí nó cho phép người khác biết khá rõ về tính cách, khả năng và ngay cả một phần của số phận của kiếp người?

Chẳng hạn, trong bất kỳ một tác phẩm văn học của bất kỳ một nền văn hoá nào, tên của các nhân vật chính bao giờ cũng đã là chủ đề mà tác phẩm muốn phản ánh: Tấm - Cám; Chị Dậu; Thị Nở - Chí Phèo; Chị Sứ... Người Việt tự xa xưa thường đặt những cái tên thật xấu xí bởi niềm tin con cái sẽ dễ nuôi, chóng lớn:

                        Cái Hĩm, Cái Bướm, Cái Bèo
                        Cu Mần, Cu Bóp, Cu Teo, Cu Tèo.

Rõ ràng trong những trường hợp trên, thông tin có được từ sự “ xấu xí ” hàm chứa vô vàn các “thông điệp” dung dị mà cực kỳ sâu sắc của những người nông dân chân lấm, tay bùn.

Dần theo thời gian, xã hội càng phát triển, đời sống văn hoá càng cao thì cái tên càng được coi trọng với rất nhiều những kỳ vọng và nỗi niềm...


1) Tôi không hoàn toàn nghĩ rằng có những cái tên đẹp và những cái tên chưa thật đẹp. Khổng Tử nói “Mỹ tại kỳ trung”.  Những cái tên cũng như bộ quần áo của con người, chúng chỉ là lớp vỏ của cuộc đời. Tuy nhiên, có lẽ rất không nên khi đặt tên cho con mà vô hình trung, bắt con mình phải theo đuổi sự trớ trêu - nhiều khi đến mức khôi hài, suốt những tháng năm dài chỉ bởi cái khập khiễng giữa tên và người. Ta sẽ giải thích thế nào khi con gái mang tên Bạch Tuyết mà màu da thì có họ gần với ông lão đốt than? Cũng rất tương tự nếu con mình là Trần Tiến Sĩ nhưng nó chưa và sẽ không bao giờ học quá lớp 5!

2) Tôi đã chứng kiến không phải một lần cảnh một cô nữ sinh ngồi khóc chỉ vì những đứa bạn trai tai ác cứ luôn lỡ gọi nhầm theo cách nói lái của những cái tên. Phạm Thu Cúc hay Trần Giáng Hương thật sự là những tai hoạ nếu như sự quá quắt của lứa tuổi học trò không nhìn thấy giới hạn. Hy vọng vào tính giới hạn có thể của các thế hệ nhất quỷ, nhì ma chẳng khác gì công việc mò kim ở đáy... chân trời.

3) Người Việt có một thói quen cực xấu là thích phô trương với những cái tên. Dù chỉ ký để nhận lương hay viết một bài báo nhỏ, ra một cái đề thi... bao giờ cũng phải ghi đủ và ghi rõ GS. TS... Cứ như thể không có những chức danh và học vị đó thì bài viết sẽ không còn giá trị nữa. Một cái quán xập xệ lèo tèo vài bao xi măng, dăm thanh sắt nhưng vẫn học hỏi thật tuyệt vời phong cách của anh bạn nhà nhím: Trung tâm phân phối vật liệu xây dựng. Tôi đã từng đi qua cầu Hiền Lương đầu năm 1986. Khi đó, công nhân đang thay những tấm ván mặt cầu. Một tấm biển thật to được dựng ở đầu cầu: Công trình chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI.

Nếu đi khắp và đọc khắp 64 tỉnh, thành của đất nước; sẽ thấy có cơ man là trung tâm. Trung tâm đào tạo chất lượng cao ĐN; Trung tâm luyện thi Đại học Mở; Trung tâm in và sang băng hình... Có lẽ, đã đến lúc phải có một văn bản rõ ràng và chi tiết quy định về cách đặt tên. Nhất thiết phải phân biệt rõ một trung tâm chất lượng cao thì khác với cái chưa cao ở điểm nào? Như thế nào thì mới được gọi là một trung tâm? Đây không chỉ là sự lãng phí của ngôn từ mà còn là sự vô trách nhiệm được sinh ra từ độ dày quá mỏng của một nền nghĩ hơi bị thiếu về văn hoá.

4) Đường phố ở các đô thị, thị trấn của nước ta là cả một mê cung của những cái tên. Ta giải thích như thế nào khi ở Quận I, Quận II, Quận III của thành phố Hồ Chí Minh vẫn cứ con đường đó với tên đó. Hỏi đường, bao giờ cũng phải giải thích ở quận nào! Tại sao phải nhiêu khê đến thế, mất thì giờ đến thế? Đó là chưa nói đến việc lúc có sự cố - khi mà sự sống và cái chết được tính bằng giây; thậm chí chỉ cần 10 giây thôi tính chất của một đám cháy đã khác hoàn toàn rồi... Có lẽ cách đặt tên đường của người Mỹ là điều đáng phải quan tâm.

Đường phố ở nước ta có quá nhiều những cái tên mới mà lại rất ít những tên người từng làm ra lịch sử cách đây hàng trăm  - ngàn năm. Phải chăng 60 năm của nước Việt Nam mới là đủ để cho chúng ta quyền vinh thăng những danh nhân mới nhiều hơn gấp bội phần cha ông chúng ta tạo dựng cơ ngơi này từ nhiều ngàn năm trước? Là một người thích sử, tôi đã day dứt và không thể nào lý giải nổi vì sao lại có sự bất cập đến như thế. Tại sao Nhà Trần có đến hàng chục tên đường mà gần 400 năm của triêu đại Chúa - Vua Nguyễn lại không thể có nổi vài tên đường phố? Đã bao giờ chúng ta tự hỏi rằng thời kỳ từ 1558 - 1945 là thời kỳ cương vực Đất Việt mến yêu được mở rộng nhất; các thành tựu văn hoá  - xã hội là nhiều nhất ... nhưng tại sao có thể nhớ về thời đại đó ít ỏi đến thế?

Thử nhìn sang Trung Quốc. Hoàng Đế Khang Hy (1665 - 1725), Ung Chính (1725 - 1736), Càn Long (1736 - 1795) đều không thiếu những bạo tàn, ích kỷ. Thế nhưng đó lại là những người đem về cho đất nước Trung Hoa ngày nay 3 triệu km2 đất đai Tân Cương, Tây Tạng, Nội Mông. Chẳng trách người ta dựng phim về hai ông vua này nhiều đến thế!

Không thể để cho gần 4 thế kỷ của lịch sử lại thiếu vắng những nhân tài. Chúng ta đang phí phạm lịch sử; hoặc giả, chúng ta đang nhìn khác hướng với cha ông mình.

5) Tôi sắp buộc phải nói ra một trong những điều khó nói nhất và chắc chắn là khó tìm được sự đồng cảm nhất: đó là chuyện của những cái tên đường gắn liền với những niềm tự hào của dân tộc.

Quá khứ hơn 1000 năm hào hùng của lịch sử (năm 938 đến nay) gắn liền với rất nhiều chiến công hiển hách. Tuy nhiên, một khi đã khép lại quá khứ, hướng đến tương lai thì nhất thiết phải nói và hành động theo cách thức buộc tất cả bạn bè trên thế giới phải tâm phục, khẩu phục.

Lịch sử không thể thay đổi. Nhưng chúng ta vẫn có thể nhắc đến nó bằng một cung bậc khác, với nhịp điệu khác, ở tần số khác. Tôi nghĩ rằng Quang Trung hay Trần Hưng Đạo là đủ. Không nên và không hay một chút nào khi nhắc thêm Nguyễn Huệ, Trần Quốc Tuấn. Đó là chưa kể đến các “phụ danh” đi kèm như Đống Đa, Ngọc Hồi... Có nên chăng thiết lập một vùng trung lập về địa danh, tên đường ở khu vực nhạy cảm  như nơi có Đại sứ quán nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa?

6) Sự công bằng có thể là điều khó tìm thấy nhất trên trái đất này. Thế nhưng   chắc sẽ dễ dàng hơn đối với những người không còn sống nữa. Chúng ta đã vinh danh những cái tên thật xứng đáng như Yersin, Pasteur, Lénine. Tại sao Alexandre de Rhodes - Người đã cho tôi những kiểu chữ để viết những dòng này lại không thể có một cái tên? Chẳng lẽ không đáng để tôn vinh một người Mỹ dám tự thiêu để phản đối cuộc chiến tranh Việt Nam  như Morrison sao? Nếu đặt Morrison bên cạnh Lê Văn Tám, tôi e rằng cả hai đều phải đồng thanh đòi lẽ công bằng(!)

Tôi đến trường học nào cũng có câu “Tiên học lễ, hậu học văn” của Khổng Tử. Giá trị tư tưởng và công lao của Khổng Tử, Tôn Trung Sơn (đã từng đến Việt Nam), Chu Ân Lai đối với dân tộc Việt Nam nếu không muốn nói là nhiều thì chắc chắn cũng không thể ít hơn Yersin.. Đó là những cái tên cần nhớ của lịch sử và, những cái tên thật cần thiết cho việc hoá giải phần nào những mắc mớ, nhầm lẫn từ quá khứ để cho tương lai của các quan hệ trở nên rõ ràng hơn.

7) Các vĩ nhân luôn coi trọng việc đặt tên. Tháng Năm năm 1941, lãnh tụ Hồ Chí Minh thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh để thay thế cho Mặt trận Dân tộc Thống nhất phản đế Đông Dương. Chỉ 4 chữ Độc lập Đồng minh đã cho ta thấy đủ cả tầm vóc củạ sự vĩ đại. Nó khái quát toàn bộ đường lối cách mạng của Đảng chỉ bằng hai chữ Độc Lập. Nó chỉ ra dứt khoát con đường chính nghĩa của cách mạng Việt Nam bằng hai chữ Đồng Minh! Chỉ đến những ngày hiểm nghèo sau Cách mạng Tháng Tám 1945 chúng ta mới phần nào hiểu rõ sự vĩ đại về cách đặt tên của một thiên tài! Có thể nói, nếu không có hai chữ Đồng Minh, trước 20 vạn quân Tưởng, 1 vạn quân Anh, số phận của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ lâm vào bao tình thế trầm kha.

Năm 1961, trước tình trạng bát nháo của viện trợ Mỹ cho nước ngoài, tổng thống Mỹ  John F. Kennedy thành lập một cơ quan để quản lý tất cả các khoản viện trợ. Kennedy đã gần như không ngủ suốt một tuần để cuối cùng tìm được một cái tên thích hợp: Cục Phát triển Quốc tế. Tên tiếng Anh của nó là  Agency for International Development. Điều diệu tuyệt của cái tên này là khi viết tắt - AID, nó lại là từ “giúp đỡ”, “viện trợ” (aid).

8) Có những cái tên nghe qua dường như không có vấn đề gì; nhiều khi lại tạo nên ấn tượng - đúng như mong muốn của những người nghĩ ra nó. Thế nhưng thực ra lại vô cùng không ổn. Chẳng hạn Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Cụm từ Phát triển Nông thôn trong trường hợp này thật tối nghĩa. Chẳng lẽ Bộ Ngoại giao hay Bộ Giáo dục và Đào tạo không có chức năng phát triển? Việc phát triển bất kỳ một vấn đề nào đều là chức năng, nguyên tắc của mọi cơ quan, tổ chức. Nói gọn, đó là thuộc tính của sự tồn tại. Nhiệm vụ của Bộ Nông nghiệp là để đưa nông thôn tiến lên và vì thế không thể tách rời hai nhiệm vụ nông nghiệpphát triển. Đó là chưa nói đến sự chồng chéo nhiệm vụ giữa Bộ Nông nghiệp và các bộ khác như Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng...

Chúng ta nói rất nhiều đến việc tinh giản bộ máy nhà nước để hoạt động có hiệu quả hơn, đỡ tốn kém hơn. Thế nhưng hiện nay có quá nhiều cái tên của rất nhiều cơ quan chồng chéo lên nhau - đến mức một con người cụ thể không rõ mình là ai; mình thuộc về “ai”. Tỷ dụ như một người nông dân; chị  ta vừa là người của Hội phụ nữ, của Hội nông dân, của Hợp tác xã, của Mặt trận Tổ Quốc và nếu đã từng đi bộ đội thì còn là của Hội cựu chiến binh! Đã đến lúc phải đặt câu hỏi Hội phụ nữ đã, đang làm được gì cho những người đàn bà? Hội Nông dân làm gì cho những người nông dân? Tôi cho rằng, Hội Liên hiệp phụ nữ hay Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam chỉ nên cơ cấu thành một tổ chức trực thuộc cơ quan Mặt trận là đủ. Đó là cách tốt nhất để làm đẹp hơn những cái tên.

9) Việc thay đổi tên đường phố, tên cơ quan... quả là vấn đề không đơn giản. Thế nhưng nếu cần thiết thì vẫn phải làm. Thế giới người ta còn dám thay cả tên của một quốc gia. Trước kia, nước Chile ngày nay có tên là Chilli vì nhìn trên bản đồ quốc gia này trông giống như một trái ớt. Âm của từ này khi đọc lên còn có nghĩa là sự lạnh lẽo, vô tình (chilly). Mianmar có tên cũ là Miến Điện (Burma). Chữ Bur đọc giống như từ bug (sâu bọ). Rõ ràng việc đổi tên là hoàn toàn có lý.


Chuyện đặt tên và gọi tên  rất có thể là một câu chuyện dài mà những điều nêu trên đây chắc chắn sẽ đưa đến không ít những bất bình. Dù sao đây cũng chỉ là một ý kiến chủ quan. 20 năm trước ta đã từng có Uỷ ban Sinh đẻ có kế hoạch mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã từng làm chủ nhiệm. Bây giờ, Uỷ ban Dân số gia đình và trẻ em chắc hẳn là hay hơn nhiều. Đó là một cụm từ có xuất xứ từ Hoa kỳ.

Nhiều thành phố ở nước ta rất ý vị khi để cho 2 con đường Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh khai giao nhau. Đó là một cách đặt tên rất đáng trân trọng. Thế nhưng đã có đường Nguyễn Sinh Sắc sao lại không có đường Hoàng Thị Loan? Và nếu có  tại sao những tên đường hay như thế lại không thể giao nhau? Chuyện tưởng chừng như là nhỏ nhưng thật ra nó nói lên rất nhiều điều. Ít nhất nó phản ánh rằng từ vô thức (unconscious), chúng ta đã không hề bình đẳng khi xác định vai trò và giá trị của từng con người cụ thể.

Những cái tên, theo tôi nghĩ, là vô cùng quan trọng. Khi người Mỹ phóng tàu vũ trụ Apollo - ai cũng biết đó là tên của vị thần Apollon, thần ánh sáng, trí tuệ, hiểu biết, khám phá. Lúc nhận hợp đồng cung cấp bóng thi đấu cho Euro 2004, hãng Adidas đã đặt tên cho trái bóng là Roteiro với 4 vạch thẳng và một vạch ngang. Roteiro là tên của cuốn nhật ký hải trình mà năm 1497 - 1499, Vasco de Gama đã sử dụng trong chuyến đi đầu tiên của con người từ đại dương này đến đại dương kia (Đại Tây Dương đến Ấn Độ Dương). Những đường vạch trên trái bóng tượng trưng cho các đường kinh tuyến và vĩ tuyến của trái đất. Thế mới biết, dẫu chỉ là một quả bóng da thôi, ý nghĩa của việc đặt tên và thể hiện cái tên đó đã làm tăng giá trị của nó lên rất nhiều lần. Roteiro đã trở thành sự khám phá văn hoá, khám phá những bất ngờ, biểu tượng của khát vọng và ý chí phi thường của con người. Người Hy Lạp đã chứng minh rằng họ thật sự hiểu một cách đầy đủ những ý nghĩa đó.

Huế, Mùa thi 2004
H.V.T
(186/08-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.

  • THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.

  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.

  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".