Tản văn - lấp lánh sắc màu

15:25 27/08/2008
KIM QUYÊNĐọc tản văn của nhà văn Mai Văn Tạo (*) và nhà văn Trần Hữu Lục (*) tôi như đứng trên những tảng mây lấp lánh sắc màu, theo gió đưa về mọi miền, mọi nẻo quê hương.

Hai nhà văn sinh ra ở hai miền: một Mai Văn Tạo của Thất Sơn huyền bí - An Giang - một Trần Hữu Lục của đền đài lăng tẩm Huế. Tôi thật sự ngưỡng mộ sự uyên bác trí tuệ, sự cần cù lao động nghề nghiệp để như con tằm nhả cho đời những sợi tơ mong manh, óng ả làm cho cuộc sống bên trong của con người đẹp lên biết bao.
Một Trần Hữu Lục với kiến thức uyên bác về nhạc, họa, phim ảnh, kịch nói, về chân dung những nhà văn, nhà thơ Việt Nam, những nhà làm phim Mỹ trên chiến trường Việt Nam xưa, về quê hương anh, xứ Huế mộng mơ.
Trong phần tản văn gồm 31 bài đã có đến 13 bài viết về Huế. Một số bài ấn tượng như ''Mẹ Ca dao'', ''Sông Hương chảy bên ngoài Tổ quốc'', ''Trịnh Công Sơn - giữ lại một tấc lòng''... Những mảng văn đó, anh viết về bà mẹ ở Cồn bắp trên sông Hương với những câu ca dao trữ tình buồn man mác như cuộc đời truân chuyên của bà một mình chắt chiu, tần tảo nuôi con. Ba bài viết cho nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đầy trân trọng nghĩa tình, bài ''Sông Hương chảy bên ngoài Tổ quốc'' cho thấy có một cộng đồng người Huế xa xứ lúc nào cũng đau đáu một niềm thương nhớ quê nhà và đang góp sức mình (dù ở phương trời xa) xây dựng Tổ quốc.
Từ nhạc sĩ Văn Cao, nữ ca sĩ nhạc nhẹ Patricia Kaas (Pháp), đến Đất phương Nam, Cầu Mỹ Thuận; từ chuyện ''Lập làng trên Cao nguyên'' đến chuyện ''Săn tìm ảnh đẹp''... 31 tản văn với giọng kể tài hoa, sâu sắc, thâm trầm đôi lúc đầy cảm động mang đến cho người đọc những thông tin mới lạ bổ ích.
Phần bình văn có 47 bài giới thiệu những tập thơ, trường ca, truyện ngắn, truyện dài, bút ký, phóng sự của nhiều tác giả trong nước. Không hiểu sức đọc của nhà văn như thế nào mà chỉ riêng tập ''Ngàn câu thơ tài hoa Việt '' của nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm sưu tầm dày cộp như quyển tự điển Oxford 150. 000 từ, mới nhìn đã thấy ngán, còn thời gian đâu để đọc và bình nữa. Có lần, Ngô Thị Ý Nhi tác giả tập truyện ''Con ngựa đen đốm trắng'', nói với tôi: ''Anh Lục tự đọc tập truyện của em rồi tự viết bài giới thiệu chớ em có quen biết gì ảnh đâu? ''Phải chăng đấy là tấm lòng giữa bạn văn với nhau và sự mong muốn chân thành: Làm người ''đưa đò'' lặng lẽ, đưa những người bạn văn sang bến hạnh phúc.
Sáng tác tương đối đều, nhà văn Trần Hữu Lục là một loại hoa lạ, góp hương sắc rất riêng của mình cho vườn văn đương đại.
Rồi một Mai Văn Tạo với giọng văn rặt chất bộ, đằm thắm và thiết tha với quê hương đất nước. Từ cọng rơm vàng, cây lúa trời, cây gòn, đến hương sắc ô môi, luỹ tre làng thậm chí cây ké đầu ngựa là loại cỏ xấu xí không ai để ý đến cũng được ông nhắc nhở với tất cả sự trìu mến trân trọng. Một ông già với chiếc dép màu cam (Ông già và chiếc dép màu cam) câu chuyện dường như bâng quơ nhưng phía sau đó ẩn chứa một tấm lòng nhân hậu giữa người với người. Trong ''Chiếc nóp mùa thu'' ông thương nhớ từ cọng bàng nơi thung lũng Đồng Tháp, cọng bàng được đương thành những chiếc đệm ngủ, thành chiếc nóp mùa thu làm nên lịch sử, thương những bàn tay vất vả, khéo léo của những người dân quê, khi xa quê càng thêm nhớ tiếng giã bàng.
Giọng văn Mai Văn Tạo hóm hỉnh chân chất nhưng sắc sảo, lịch lãm. Hơn ba mươi tác phẩm đã được in ấn với nhiều thể loại, ông kể nhiều về miền đất quê ông với những mùa lũ lụt ở những xã đầu nguồn, về những năm tháng đánh giặc hào hùng của hai thời kỳ (Pháp, Mỹ) về những huyền thoại của Thất Sơn, những lễ hội vía bà Chúa Sứ núi Sam...
Từng câu, từng chữ của ông cho thấy một sự chắt lọc tinh tế và gần gũi, có thể gọi ông là cuốn từ điển sống về Nam Bộ chăng? Trong số tác phẩm tương đối đồ sộ đó thì tập tản văn mang đến một không khí mới: vui và tươi, ngồn ngộn chất dân dã Nam Bộ.
Hai tác giả với hai lối viết khác nhau, dù vẫn còn một số bài mang tính báo chí, phần bình văn của nhà văn Trần Hữu Lục đôi lúc còn hơi nhẹ phần bình và luận, nhưng những tản văn của hai tác giả vẫn đọng lại trong lòng người đọc nhiều điều vui thú, bổ ích.
Cám ơn những người viết ra tản văn. Hy vọng trong tương lai gần, người đọc được tiếp nhận những áng văn mới hay và lạ hơn nữa.
K.Q


------------------
Tản văn Mai Văn Tạo (NXB Hội Nhà văn - 1999).
Đưa đò - Tản văn và Bình văn của Trần Hữu Lục (NXB Văn nghệ - 2002).

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • (Về cuộc thi truyện ngắn dành cho sinh viên Huế do Sông Hương tổ chức)BAN TỔ CHỨC CUỘC THINhằm tạo không khí sáng tác, phát hiện các cây bút trẻ Huế, trong khuôn khổ Chương trình Phát triển Tài năng Trẻ, Tạp chí Sông Hương tổ chức Cuộc thi truyện ngắn dành cho sinh viên đang theo học các trường đại học và cao đẳng ở Huế.

  • LÊ HUỆCuộc thi Truyện ngắn cho sinh viên Huế do tạp chí Sông Hương tổ chức đã thu hút được sự tham gia của rất nhiều các bạn trẻ mang trong mình khát vọng văn chương. Những truyện ngắn dự thi đã cho ta thấy được một vóc dáng mới của các cây bút trẻ Huế hiện nay: phản ánh cuộc sống đương đại từ nhiều góc cạnh bằng bút pháp tinh tế, mới mẻ, giàu trí tuệ và đầy chất thơ. Mười lăm truyện ngắn xuất sắc lọt vào chung khảo đã được tập hợp lại thành ấn phẩm mang tên “Yêu xa xa một phút”.

  • PHAN MINH NGỌC“Bài thơ về biển khơi” (*) là tập sáng tác đầu tay của cây bút nữ Trần Thùy Mai.

  • NGÔ HƯƠNG GIANGLàm thế nào để diễn giải hợp lý về Tường Thành?

  • KHẢI PHONGTôi đã có dịp gặp những trang thơ chân chất của Nguyễn Quang Hà trong “Tiếng gà trên đỉnh chốt”(1). Lần này gặp văn Nguyễn Quang Hà trong “Mùa xương rồng nở hoa” (2), cảm tưởng lưu lại trong tôi là văn anh gây được ấn tượng mạnh hơn thơ.

  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬT19 lời chứng của những ONS(1) cuối cùng, lần đầu tiên được lên tiếng qua công trình nghiên cứu hoàn hảo của bà Liêm Khê LUGUERN(2) là những nhân chứng cuối cùng trong số khoảng 27.000 người từ Đông Dương bị lùa đến nước Pháp từ tháng 10/1939 đến tháng 6/1940 để phục vụ cho guồng máy chiến tranh của thực dân Pháp trong Thế chiến thứ II.

  • LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.

  • LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.

  • HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.

  • LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H

  • NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.

  • Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.

  • TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.

  • PHONG LÊ(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Tuân 10-7-1910 – 28-7-1987)

  • NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.

  • LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.

  • THÁI DOÃN HIỂU…Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong…

  • VŨ DUY THÔNG        (Thơ - Nghiêm Huyền Vũ, Nxb Trẻ 2000)Khác với bên ngoài, Nghiêm Huyền Vũ trong thơ là người trầm tư, cái trầm tư nhuốm vị triết học.Vây bọc quanh anh là không gian, thứ không gian cô liêu.

  • TRẦN QUỐC THỰCÍt người chịu đi tìm tiếng nói riêng khi đọc một tập thơ, một chặng thơ của một người. Qua từng chặng thơ, tiếng nói riêng ấy sẽ trở thành một cách thơ riêng biệt. Và đó là điều đáng mừng cho đội ngũ sáng tác.

  • NGUYỄN THANH TÚ          (Phác thảo chân dung nhà văn Nguyễn Bảo)