Tản mạn về bìa báo Xuân ngày xưa

10:14 28/01/2017

TRẦN VIẾT NGẠC  

Báo Xuân xưa nay luôn là số báo đẹp nhất, phong phú nhất trong một năm. Bài vở số Xuân được tòa soạn đặt bài trước cho các cây bút thân quen, nổi tiếng từ mấy tháng trước.

Bìa báo số Xuân phải đẹp, ý nghĩa, hấp dẫn độc giả, phải nổi bật giữa các tờ báo Xuân khác.

Báo Xuân còn được xem là quà tặng trang nhã, lịch sự để mua tặng bạn bè, người thân.

Vào thời chúng tôi còn đi học, hơn nửa thế kỷ trước đây, học sinh trung học thường mua những tờ báo Xuân đẹp nhất, bọc giấy kiếng để tặng thầy cô cùng với một bình hoa chưng Tết vào những giờ cuối năm trước khi nghỉ Tết. Phòng khách của nhà giáo ở Huế đầy ắp những tờ báo Xuân màu sắc tươi đẹp cùng với những bình hoa do học sinh tặng.

Bìa báo Xuân thường do các họa sĩ nổi tiếng vẽ.

Tôi còn thấy những bìa báo tuyệt đẹp như số Mùa Xuân Ngày Nay (1937) do hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí sáng tác, số Tết Ngày Nay (1940) do danh họa Tô Ngọc Vân.

Bìa tờ Phong Hóa do hoạ sĩ Nguyễn Cát Tường (Lemur). Họ đều xuất thân từ trường Mỹ Thuật Đông Dương.


Nói đến bìa báo Xuân ngày xưa mà không đề cập đền bìa báo Xuân Canh Tý (1960) của nhật báo Tự Do xuất bản ở Sài Gòn là một thiếu sót khó được tha thứ, bởi lẽ đó là một sự kiện quan trọng trong lịch sử báo chí.

Canh Tý, đề tài Chuột là thích hợp hơn cả. Không phải một con chuột mà đến năm con chuột. Kích cỡ lớn nhỏ, màu sắc đậm nhạt khác nhau, năm con chuột đang đục khoét tan hoang một quả dưa hấu đỏ, vỏ dưa màu vàng! Cẩn thận, tác giả còn ghi chữ Canh Tý bằng Hán văn lên góc trái bức tranh. Có điều khác thường là không có tên tác giả, vừa có vẻ đẹp của một bức họa dân gian vừa trông như một bức tranh sơn mài truyền thống, có thể cắt ra để treo ở phòng khách.

Bìa báo tết Ngày Nay 1937 Bìa báo xuân Canh Tý của báo “Tự Do”. 1960


Và thế là có nhiều độc giả cắt bìa báo Xuân Canh Tý để treo làm Tranh Tết dân gian trong phòng khách. Họ lại có sáng kiến treo ngược bức tranh: Vỏ quả dưa màu vàng nổi bật trên nền màu đỏ. Chẳng ai biết hoạ sĩ muốn gửi gắm điều gì. Muốn hiểu chỉ có cách suy đoán, suy diễn.

Dưa hấu đỏ là trái cây không thể thiếu trên bàn thờ ngày Tết của Miền Nam. Chưng trong phòng khách, rồi hết ba ngày Tết, quả dưa được bổ ra để đoán vận mệnh của gia chủ. Ruột đỏ, không xốp và ngọt là điềm gia chủ sẽ hạnh phúc phát tài, phát lộc… trong năm mới!

Nhưng có ai đó đã suy diễn theo chiều bất lợi cho tòa soạn và tác giả bức họa. “Họ” đem suy diễn đó mách lẻo với Dinh Độc Lập. Rằng năm con chuột là ám chỉ năm anh em gia tộc họ Ngô và quả dưa đỏ bị đục khoét tan hoang là có hình thể bản đồ đất nước.

Hậu quả là cơn giận dữ của chính quyền bùng lên. Bức tranh bìa không ký tên thì lấy ai mà “bắt bỏ bót”! Thế là vào ngày mồng năm Tết Canh Tý, một đội cảnh sát đến đập tan hoang tòa soạn báo Tự Do và hốt hết các tờ báo Xuân chưa phát hành hết ở tòa soạn.

Thế thì vô tình, ý nghĩa của bìa tờ báo đã được chính quyền xác nhận, năm con chuột tự nhiên có tên tuổi và quả dưa đỏ tan nát là hình ảnh đất nước!

Nhưng phải tìm cho ra ai là tác giả của tranh bìa báo. Phải chăng là Phạm Tăng (?), họa sĩ đã chuyên vẽ hý hoạ và biếm hoạ cho tờ báo lâu nay. Ông cũng đã từng bị bắt bỏ bót Catinat 3 tuần vào năm 1958.

Có thể tòa soạn đã khai cho Phạm Tăng vì Phạm Tăng đã đi du học ở Ý năm 1959. Thế là dư luận cũng cho Phạm Tăng là tác giả, ngoài ông ra ai mà dám “giỡn mặt” nếu không ở ngoài vòng cương tỏa.

Nhà văn Bửu Ý cũng tin như thế cho nên khi có dịp gặp Phạm Tăng ở Paris, ông cũng không tìm hiểu thêm.

Vậy mà cách đây năm năm (2012), tình cờ tôi được đọc một bài báo trên mạng. Tôi chú ý vì cái tên người bạn cũ, Xuân Đài.

Bạn tôi đã công phu tìm hiểu ai là tác giả đích thực. Ông liên lạc với thư viện Đại học Cornell (Mỹ) để có được phóng ảnh của bìa tờ báo Tự Do Xuân Canh Tý. Đại học Cornell là nơi lưu giữ tất cả những ấn phẩm sách báo của miền Nam từ năm 1954 đến 1975. Có ảnh bìa báo Xuân rồi, ông tìm cách tiếp cận những thông tin từ nhiều nguồn để xác minh. Nhà văn Nguyễn Tường Thiết, con trai nhà văn Nhất Linh cho biết: “Vào năm 1960, trên bìa báo Tự Do xuân Canh Tý, xuất hiện bức tranh năm con chuột đang đục khoét một quả dưa đỏ.

… Người ta đoán mò họa sĩ Phạm Tăng là tác giả. Nhưng cha tôi cho chúng tôi biết tác giả là một người rất thân cận với ông: họa sĩ Nguyễn Gia Trí”. (Nguyễn Tường Thiết, Sự thật về cái chết của Nhất Linh).

Bìa báo Xuân Tự Do Canh Tý 1960 của HS Nguyễn Gia Trí - Ảnh: internet


Họa sĩ Nguyễn Gia Trí chính là người gần gũi với Nhất Linh, đã vẽ bìa cho các sách của nhà xuất bản Phượng Giang do Nhất Linh chủ trương.

Xuân Đài lại nhờ một người bạn ở Paris và nhờ liên lạc với Phạm Tăng để xác minh… Phạm Tăng cho biết ông không phải là tác giả bìa báo Xuân Canh Tý của Tự Do. Tác giả chính là Nguyễn Gia Trí.

Con cháu Nguyễn Gia Trí hiện còn cũng xác nhận như vậy. Tôi mượn lời bạn tôi để kết thúc bài báo này: “Nguyễn Gia Trí là họa sĩ lớn của Việt Nam. Một nhân cách lớn. Trong sự nghiệp hội họa của ông, các nhà nghiên cứu ít khi nhắc đến bức tranh chuột này… nhưng bức tranh ấy đã có một vị trí đặc biệt trong lịch sử chính trị cũng như báo chí Việt Nam”.

T.V.N  
(TCSH336/02-2017)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • BỬU Ý

    Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.

  • LÊ QUANG KẾT
                   

    Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).

  • VŨ THU TRANG

    Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.

  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ

    Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.

  • HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
                                      Đoản văn

    Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!

  • LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ

  • BÙI KIM CHI

    Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.

  • KIM THOA

    Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên        
          
                       (Hàn Mạc Tử)

  • NGUYỄN VĂN UÔNG

    Hôm nay có một người du khách
    Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên         
     

    (Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUY

    Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.

  • LÊ QUANG KẾT                
                      Tùy bút

    Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.

  • TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.

  • LÊ QUANG KẾT

    Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.

  • HUY PHƯƠNG

    Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
    Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên         
                          
                                              (Tố Hữu)

  • PHAN THUẬN AN

    Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.

  • MAI KIM NGỌC

    Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.

  • HOÀNG HUẾ

    …Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…

  • QUẾ HƯƠNG

    Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.

  • THU TRANG

    Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ

    Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.