Tản mạn những mẫu chuyện về trường Đồng Khánh xưa

15:46 03/05/2013

Một nam sinh như tôi lại học trường nữ trung học Đồng Khánh (trường THPT Hai Bà Trưng hiện nay), có thể một số người cho đó là chuyện lạ đời. Nhưng đấy lại là sự thật 100%! Tuy tôi chỉ học ở trường Đồng Khánh một năm lớp năm bậc tiểu học (bây giờ là lớp 1) vào khoảng những năm cuối thập kỷ 40 đầu thập kỷ 50 của thế kỷ trước. Nhưng không hiểu tại sao tôi lại còn nhớ nhiều những kỷ niệm về năm học đầu đời ấy mãi tới tận bây giờ.

NGUYỄN CƯƠNG

Vào khoảng thời gian trên, trường Khải Định (nay là trường THPT chuyên Quốc Học) bị Tây (Thực dân Pháp) ngang nhiên lấy đóng đồn. Do đó trường Khải Định dồn qua dạy và học ở trường Đồng Khánh. Trường Khải Định ở dãy bên phải, trường Đồng Khánh dãy trái, ở giữa có sân chơi chung trong nhà. Phía sau nhà chơi có một số lớp tiểu học nam nữ học chung, còn các lớp trung học chỉ có nữ sinh, cũng như trường Khải Định chỉ có nam sinh và không có bậc tiểu học.

Lúc đó, tôi ở với ông chú ruột hành nghề y ở đường Phan Chu Trinh, gần ga Huế. Trong gia đình có 3 người o là nữ sinh Đồng Khánh, cho nên ông chú xin cho tôi vào học lớp nhất ở đó để cùng đi học với 3 người o cho thuận tiện. Tôi vẫn nhớ rõ 3 người o hàng ngày đi học đều mặc áo quần dài trắng đi bộ thướt tha, còn tôi xách cặp sách lẽo đẽo theo sau đến trường.

Lớp nhất của tôi có khoảng 40 học sinh nam nữ lứa tuổi từ 7 - 8 tuổi. Hiệu trưởng nhà trường tôi không còn nhớ tên, nhưng giám thị thời kỳ đó là bà Nguyễn Đình Chi (Đào Thị Xuân Yến), thỉnh thoảng mới gặp bà đi qua lớp để kiểm tra. Thời gian bà làm hiệu trưởng thì tôi đã chuyển về học trường tiểu học Nam Giao. Giáo viên thì nhiều, nhưng tôi chỉ còn nhớ hai bà giáo: Bà Tôn Thất Lương (lấy tên chồng) nói giọng Quảng, chồng là ông Tôn Thất Lương tham gia cách mạng từ năm 1946. Sau này ra Bắc tình cờ tôi được biết ông công tác ở Bộ Tài chính. Lại một sự tình cờ khác, vào năm 1973 ông vào công tác ở vùng chiến trường A Lưới, tôi được tháp tùng theo ông và đoàn về làm việc nắm tình hình một số huyện trong tỉnh. Một già một trẻ kể lại chuyện xưa với nhiều suy tư, tình cảm. Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, ông Tôn Thất Lương vào công tác tại Đà Lạt, sau đó nghỉ hưu và mất tại Huế năm 1985. Hiện nay nhà thờ và gia đình ông ở kiệt đường Nguyễn Công Trứ gần nhà anh Nguyễn Đắc Xuân và họa sĩ Đặng Mậu Tựu. Sau giải phóng, ông có gặp lại bà Lương và 3 người con. Sau đó cùng với gia đình người chồng khác, bà đã định cư và qua đời tại Mỹ.

Người thứ hai trực tiếp dạy lớp tôi là bà Bửu Tiếp (tên chồng). Sau này tôi được biết bà tên là Huỳnh Thị Liệu, gia đình Công giáo. G.S Bửu Tiếp trước Cách mạng tháng 8/1945 dạy học ở trường Khải Định. Ông tham gia hoạt động kháng chiến sau Cách mạng tháng 8 thành công. Ông bị giặc sát hại năm 1946 do cơ sở bị lộ. Bà giáo Bửu Tiếp đã có thời gian tham gia các hoạt động chống Pháp cùng thời với bà Phan Thị Nga (vợ nhà văn Hoài Thanh), Lâm Thị Tuyến (vợ đồng chí Hải Triều), Nguyễn Thị Quang Thái (em ruột đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai)... Tôi biết ông bà Bửu Tiếp có một người con là BS Vĩnh Toàn làm việc tại bệnh viện Đà Nẵng, hiện đã qua đời.

GS. Bửu Tiếp có một người em ruột là GS.BS Bửu Triều, giảng viên trường Đại học Y khoa Hà Nội là một chủ nhiệm khoa và phẫu thuật viên giỏi về các bệnh tiết niệu của Bệnh viện Việt - Đức. Tôi vinh dự được là đồng hương và ông là người thầy mẫu mực kính mến từ những năm 60 của thế kỷ trước, khi tôi học ở trường Đại hoc Y Hà Nội. Trong số các GS.BS người Huế như Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ, Tôn Đức Lang... hiện chỉ còn GS.BS Bửu Triều còn sống tại Hà Nội với độ tuổi 90. Các thế hệ học trò vẫn thường đến thăm ông.
 


Trở lại chuyện học tập ở trường, hình ảnh còn lưu giữ trong tôi là bà giáo Lương có tóc búi chải theo kiểu “bánh bèo” (một kiểu tóc của phụ nữ Huế thường thấy thời đó), trang sức và ăn mặc khá “diện”, dùng nhiều mỹ phẩm, dạy lớp bên cạnh lớp tôi. Còn bà giáo Tiếp thường mặc áo dài nâu, giản dị hơn. Hai bà giáo hồi đó chỉ chừng ngoài 30 tuổi.

Bạn học cùng lớp, tôi còn nhớ được một đôi người. Trong đó có người bạn ngồi cạnh, học giỏi là Nguyễn Đình Thọ (con cụ Nguyễn Đình Hàm giáo sư trường Khải Định cũ). Hiện nay Nguyễn Đình Thọ là GS.TS hóa học có vợ người Ba Lan, gia đình định cư ở Pháp. Lâu lâu Thọ có về Huế, chúng tôi lại gặp nhau tâm tình chuyện xưa... Còn một người bạn thân nữa là Kim Liên thì bây giờ không biết đang ở phương trời nào? Ngay từ thời đó mà Kim Liên đã có đầu tóc xoăn (Fillet) rồi đấy.

Nhớ lại toàn trường có một hôm được xem đoàn xiếc từ Sài Gòn ra biểu diễn tại nhà chơi có mái. Tiết mục ấn tượng nhất là có người phóng dao vào một nữ diễn viên đứng tựa vào tấm bảng gỗ. Dao găm quanh mình rất chính xác, chúng tôi thấy sợ và hồi hộp lắm. Nhỡ một cái thì... Có những buổi ra chơi được bà giáo cho ra bãi cỏ vườn hoa bờ sông Hương ngay trước mặt trường thật thơ mộng để vui đùa. Không phân biệt trò nam hay trò nữ, chúng tôi đều đi nhặt hoa phượng để chơi trò “đá nhụy phượng”, ai đã từng chơi đều nhớ rõ.

Những ngày được ở nhà buổi chiều, tôi thường nghe 3 người o hát và đàn măng-đô-lin, trước mắt là những bản nhạc có hình vẻ minh họa mà bây giờ tôi mới hiểu được nội dung. Sau này lớn lên có dịp xem lại những bản nhạc đó có tên rất lãng mạn, man mác buồn như: Đêm tàn Bến Ngự, Trăng mờ bên suối, Con thuyền không bến, Buồn tàn thu, Bóng chiều xưa, Giọt mưa thu... thường gọi là tân nhạc hoặc nhạc tiền chiến. Những nhạc phẩm tên tuổi này hiện nay vẫn xuất hiện trong các chương trình Ký ức thời gian, Những bài ca đi cùng năm tháng,... gợi lại cho mỗi người đã từng sống ở thời kỳ ấy nhưng hoài niệm thật khó quên bởi giai điệu và lời ca bài hát.

Sau này khi trưởng thành, sống và làm việc ở Hà Nội, tôi được gặp khá nhiều cựu nữ sinh Đồng Khánh qua các thế hệ quê ở Huế, ở Hà Nội... trong đó có bà Ngô Thị Chính (đã có thời gian là Hiệu trưởng nhà trường sau giải phóng (1975 - 1976), bà Nguyệt Tú (vợ ông Lê Quang Đạo), bà Bùi Bội Anh, bà Phan Thanh Ty Ty (là hoa khôi của trường thời đó), bà Phan Thị Thái Hà (Hiệu trưởng nhà trường giai đoạn 1976 - 1977),... Họ đều có dịp gặp nhau ôn lại bao nhiêu chuyện dưới mái trường xưa trong những lần kỷ niệm thành lập trường. Tuy xa Huế đã lâu, nhưng phong cách ứng xử, ăn mặc của các bà rất “mệ”.

Những dịp kỷ niệm 80, 85, 90 và gần đây là 95 năm thành lập trường, tôi đều đọc các quyển kỷ yếu, tìm lại dấu xưa thuở thiếu thời, thích nhất là các bài viết của cựu giáo viên, nữ sinh giai đoạn những năm 40, 50 thế kỷ trước. Hồi còn tại chức, tôi thường được mời dự các sinh hoạt có tính chất sự kiện của trường. Không ai có thể biết rằng tôi là một cựu nam sinh của một trường nữ có bề dày truyền thống nổi tiếng cả nước. Điều đó làm cho tôi thấy vui vui, tự hào.

N.C
(SDB8/3-13)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • BỬU Ý

    Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.

  • LÊ QUANG KẾT
                   

    Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).

  • VŨ THU TRANG

    Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.

  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ

    Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.

  • HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
                                      Đoản văn

    Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!

  • LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ

  • BÙI KIM CHI

    Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.

  • KIM THOA

    Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên        
          
                       (Hàn Mạc Tử)

  • NGUYỄN VĂN UÔNG

    Hôm nay có một người du khách
    Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên         
     

    (Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUY

    Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.

  • LÊ QUANG KẾT                
                      Tùy bút

    Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.

  • TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.

  • LÊ QUANG KẾT

    Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.

  • HUY PHƯƠNG

    Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
    Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên         
                          
                                              (Tố Hữu)

  • PHAN THUẬN AN

    Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.

  • MAI KIM NGỌC

    Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.

  • HOÀNG HUẾ

    …Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…

  • QUẾ HƯƠNG

    Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.

  • THU TRANG

    Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ

    Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.