Tản mạn bí bầu

14:21 15/01/2014

NGUYỄN ĐẶNG MỪNG

1. Thương chồng
Thương chồng nấu cháo le le
Nấu canh bông bí, nấu chè hột sen

Ảnh: internet

Mạ hò ru em, từ nhỏ tôi từng nghe như thế, và tưởng thế là đúng. Cái làng của tôi hình như không trồng được hoa thiên lý nên chỉ có bông bí là ngon nhất chăng. Thương chồng, khi có vợ, ở hoàn cảnh ngặt nghèo, lúc gần 30 tuổi tôi mới thấm kiểu cách thương chồng của nông dân, bắt đầu và cao nhất là từ… cái ăn. Trước đó tôi không nghĩ thế. Tình yêu, tình nghĩa vợ chồng trong những tác phẩm tôi đã đọc, dù nghèo như cô Liên trong Gánh Hàng Hoa, hay như cha mạ tôi thì cũng nên thơ lắm. Vậy mà khi tôi có vợ mới nghiệm ra rằng, thương chồng là… nhịn ăn cho chồng. Tôi nhớ hình ảnh mạ tôi ngồi ăn với các chị dưới bếp, bên chuồng heo, trong lúc tôi và em trai được ngồi cùng bàn với ba ở nhà trên, mâm cơm tươm tất có canh bông bí. Nhưng không thống thiết bằng cách vợ thương tôi.

Năm 1979, nhân ngày 8.3 cửa hàng hợp tác xã “phân” cho mỗi chị em nửa ký thịt trâu. Con trâu già của đội sản xuất nông nghiệp chết đúng ngày vui chị em, có chị thương trâu không ăn thịt. Dù thịt dai nhách, nhưng đối với nông dân thuở đó thì quý lắm. Vợ tôi bèn xào lá lốt, nấu 2 lon gạo mới đầu mùa và ngồi nhìn tôi ăn. Đi trồng khoai về bụng đói, hỏi em ăn chưa. Vợ bảo anh cứ ăn đi, em dành phần cho em rồi. Chút nữa con ngủ em ăn sau cũng được. Vợ bồng thằng cu đầu sáu tháng tuổi nhìn tôi ăn. Cả mấy năm ít khi được ăn cơm không độn, lại có thịt trâu. Tôi “chơi láng” nửa ký thịt và hai lon gạo. Xong. Vợ tôi để con vào nôi tre, và ru, nó đã ngủ. Tôi dọn chén bát hộ vợ. Xuống bếp, tôi giở nồi cơm xem, cơm hết. Cả soong thịt trâu cũng không còn chút nước. Tôi òa khóc như con nít. Và tự an ủi, hay vợ mình thương trâu, không thể ăn thịt trâu!

Nay mỗi lần có thịt bò xào lá lốt tôi lại nhớ chuyện xưa. Không ai nhắc, nhưng với mùi lá lốt thịt bò thì mắt ai cũng rưng rưng. Chiều ni đi tỉa đọt bầu, vì để bầu ra tự nhiên sẽ khó đậu trái. Có người bạn dân Nam bộ tới nhậu, thấy đọt bầu rơi vãi lung tung, bảo sao của quý mà anh lại vứt đi, cái này mà chấm chao thì “hết biết”. Vậy là chúng tôi ra tay, hóa ra đọt bầu ngon không kém bông bí.

Bèn làm “vè” rằng:

Thương bầu như thể thương em
Cái cong tròn trịa em nằm gần tôi
Thương chồng nấu cả khúc nôi

Chén canh bầu bí đất trời trong veo.

2. Bầu ơi...

Mấy tháng ni mình cứ nghĩ đến bầu bí, loại dây leo cho trái xanh nhiều vân mây trời, gắn liền với tuổi thơ. Hồi nhỏ mình hay ngồi nhìn mây, tự bảo nó đến từ đâu, và bay về đâu nhỉ. Chỉ những vân mây trên trái bầu dài còn lại, sáng cho đến chiều, mình ngắm mây ở đó, rồi ve vuốt nó trên thân trái bầu.

Hồi ở Ái Tử, có lần nhìn lên giàn bầu, thấy ai phơi cây song mây nhiều lắm, mình hỏi chú Xương, mây của ai nhiều thế. Chú bảo mây của trời, và mơ màng rít hơi thuốc lào, rồi phả khói trắng như mây, chú Xương ngẫm ngợi rụt rè bảo, “mây của trời”. Mây của trời, mộng của chiêm bao*, một câu thơ ai đó mình quên mất rồi.

Lại nhớ Bầu, giàn bầu.

Vậy là mình đi mua phế liệu về làm cột, dây điện thoại phế thải về làm giàn. Giàn bầu bí vài chục dây lên chen nhau trông mà sướng mắt. Hóa ra cái điều phế thải nhiều khi cũng được việc, nhất là để “sự sinh tồn trẻ tuổi” nó bám vào, như dây bầu vậy.

Buổi sáng mình tập thể dục, nhảy disco một mình bằng nhạc tưởng tượng với bầu với bí, lại cũng một mình, cha cha cha với Sài Gòn đẹp lắm của cố nhạc sĩ Y Vân. Và đôi khi ngắt vài bông bí để trưa luộc chấm nước ruốc... Lại buồn, nghĩ về ca dao, “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Hi hi, tụi trẻ chừ không thích ca dao mấy. Gặp tụi sinh viên miền Trung vào quán Rất Huế của mình, hỏi biết câu ni không, rất nhiều đứa không biết. Mà tụi nó hát hay lắm thế, nào yêu nhau buổi sáng buổi chiều ghét nhau, nào là năm anh em trên một chiếc xe tăng. Không biết cái dàn bầu lịch sử con cháu học mấy chục năm lại đây có bám vào mà lớn mà khôn được không, hay là vẫn thế, vẫn ghét nhau ném đá vỡ đầu nhau ra.

Quán mình có 4 cây đàn ghita, tối nào mình, dù lên lầu, bên máy tính, đọc sách báo vẫn văng vẳng xa gần tiếng hát của con cháu miền Trung. Nhiều khi bực mình chạy xuống… tham gia, hỏi tụi nó biết bà Huyền Trân không, bà Ngọc Hân không, biết Ai Tư Vãn, Nam Ai Nam Bình, Tứ Đại Cảnh không. Tụi nó chẳng đứa nào biết, còn bảo rằng biết chi thêm cực, chú. Biết lương tháng bao nhiêu, biết đứa nào làm giàu nhanh, còn khoe cả quan hệ dây mơ rể má lên tới… trung ương. Nghĩ mà lo cho con cháu, đầu óc tụi nó đã bị khuyên lại, nhỏ như lổ đồng xu, hoang tưởng như đồng bóng.

Cả hơn tuần nay không ngủ được, mình cứ trông trời sáng để ra thăm bầu. Đất phương Nam thật tuyệt, mùa nào bầu cũng xanh tốt. Loài cây thật kỳ lạ, lên nhanh trông thấy. Đầu hôm mình để ý một râu bầu nào đó vươn vòi như với tới nơi cần nương nhờ, sáng ra đã thấy nó làm xong phận sự neo vào giàn rồi, nó quấn vòi vào rồi tự co lại như lò xo giảm sốc, để gió không thể làm gãy thân dây. Hàng trăm “giây neo” mềm mại cứ thế định vị cho dây bầu trải ra đều trên giàn. Có thể các nhà vật lý xưa cũng bắt chước râu bầu để làm nên “sự giảm sốc”, như cha ông mình thường bảo, dây mềm cột chặt, già néo đứt dây.

Nhớ hồi nhỏ đi học trông mau về nhà để trông giàn bầu dài mạ trồng trước sân. Trái bầu đầu tiên dài và lạ lắm. Thời đó quê mình chỉ trồng bầu Hồ Lô, loại bầu dài hình như mới nhập vào Việt Nam những năm đầu thập kỷ 60. Trái bầu màu xanh có những đốm hoa văn như mây trời, dài gần một thước.

Một hôm mình rủ mấy đứa bạn về nhà để xem bầu dài. Tụi mình vừa đi vừa chạy vừa kể về bầu. Đến nhà mình thấy trái bầu bị ai cắt đi một nửa, nửa còn lại treo lủng lẳng trên giàn, nước ứa ra như khóc. Mình bỏ bạn bè chạy vào nhà nằm trùm mền khóc tức tưởi. Các bạn về hết, chỉ còn mình và nửa trái bầu đang khóc. Ba về hỏi răng con khóc, mình bập bệu chỉ nửa trái bầu bị cắt ứa nước. Ba chăm nhìn mình, mắt ông cũng đượm buồn rồi nói: “Con trai mà mau nước mắt. Và nhìn đi chỗ khác”. Có lẽ, với thằng con trai mẫn cảm là mình, ba linh cảm rằng sau này đời mình sẽ khổ. Cuối đời tưởng yên phận, lại nhảy vào chốn văn chương, nơi “Lập thân tối hạ…”.

Năm lớp chín nhà mình ra thị xã, mình nhớ bầu lại trồng giàn bầu hồ lô để nhớ làng xưa. Có người bạn gái cùng lớp đạp xe theo mình về thăm bầu. Bạn ấy xin mình trái bầu hồ lô bằng trái bóng tròn để trước giỏ xe đạp về. Khoảng một tiếng sau bạn ấy quay trở lại, mồ hôi ướt lưng áo dài trắng, mắt đỏ hoe khóc thút thít. Trước giỏ xe đạp vẫn còn trái bầu. Mình hỏi răng khóc, bạn ấy trả lời: Mạ đánh. Lại hỏi răng đánh, bạn ấy khóc lớn hơn bảo: “Mạ nói con gái vô duyên, tới nhà con trai mà xin bầu”.

Từ đó đến nay mình không bao giờ tặng “bầu” cho phụ nữ, ngoài vợ mình.

3. Thiếu nữ Hồ Lô

Thắc mắc chuyện gì tôi cũng vào google, search tìm kết quả.

Sáng nay ngắm hoa bầu nở, loại bầu Nậm, người sắc tộc Tây Nguyên gọi là Hồ Lô. Khác với bông bí màu vàng, bông bầu dài màu trắng và nhỏ. Bông bầu Nậm cũng màu trắng nhưng lớn hơn, trắng tinh khiết và duyên dáng không kém gì các loài hoa đỏng đảnh, trang đài. Hoa đực lớn gấp đôi hoa cái nhưng “vô tích sự”, nó xấu hổ vì sau khi làm công việc thụ phấn qua ong bướm, rồi chết yểu. Hoa cái nhỏ hơn, bông nào đậu trái thì sẽ cho ra những “thiếu nữ Hồ Lô” có 3 vòng hấp dẫn. Bầu Nậm mang dáng dấp phương Đông ở ba vòng. Nếu để ý bạn sẽ thấy phụ nữ phương Tây, qua các cuộc thi nhan sắc, vòng một thường lớn hơn vòng 3, phương đông thì ngược lại, như bầu Nậm.

Quê tôi thời đó chỉ gọi là bầu, thập niên 1950 chưa có các loại bầu dài. Trái bầu quê tôi thời đó cũng là loại bầu nậm, nó to như trái bóng tròn, vòng ba lớn hơn nhiều lần vòng một. Có lẽ do ăn thiếu dinh dưỡng nên vòng một thường khiêm nhường, làm việc gánh gồng nhiều nên vòng ba phải lớn, nơi mọi sức nặng của đời đàn bà dồn vào đó, và quan trọng nhất là nơi đủ sức mang bầu, làm phận sự nối dõi tông đường cho gia nương bên chồng. Phụ nữ thời đó, sau ba năm mà không sinh đẻ được là bị “để” về, hay nói trắng ra là đuổi về. Vì tôi cưới cô về để mang bầu và đẻ. Cô không làm được thì xin mời…

Lại search google, không thấy thông tin gì nhiều như tôi tưởng, chỉ có một dòng, không nói lên điều chi cả: Bầu nậm/ Bầu hồ lô/ Bottle Gourd/ Birdhouse gourd/ Ornamental gourd. Chỉ có hình mình họa là đáng… ngắm. Trái bầu láng cóong như… da người đẹp, và eo tròn như không thể tròn, nhỏ hơn chút nào nữa.

Có lần tôi giải thích với đám nữ sinh viên, (thường là sinh viên tổng hợp văn, hoặc trường du lịch, muốn hỏi Chú Mừng về phong hóa nông thôn Việt xưa), rằng, không phải bầu có eo là tự nó làm ra eo. Cũng như con gái, lúc mười tuổi thẳng đuột như trái bầu… con nít. Đến tuổi dậy thì, vòng một và ba phát triển, eo theo đó... thành eo.

Mấy cháu miền Trung, giọng trọ trẹ lại cắc cớ thắc mắc, vậy thì vòng hai có trước rồi đến các vòng khác hở chú. Ừ, cái rốn có trước, là trung tâm của… các vòng còn lại, kể cả vòng... cái đầu là vòng 1’.

Vậy chú có bài thơ nào “vịnh” về cái eo không chú. Haiz, cái eo có ai làm thơ không nhỉ. Trời xui thế nào tôi lại nhớ mấy câu của mình, về cái eo:

Chỗ eo em cột quê mình lại
Ngọc Vạn phương Nam - bảo xứ Tần
Đất bạc sự đời trôi ra biển
Hoàng Sa ngoảnh lại mắt Huyền Trân.

Đám Nam Kỳ la lên, vòng ba mới là quan trọng, nó là nơi, là cơ sở kỳ diệu để phát triển giống nòi, vậy thì vòng ba là number one.

Bắc kỳ cũng không chịu thua, rằng vậy thì sau khi sinh nở, nếu không có vòng một lấy chi mà em bé lớn lên. Vòng một còn là nơi có trái tim, trung tâm của sự sống.

Đến nước này thì tôi phải ra câu đố để đánh lạc hướng, cũng về “bầu” thôi. Câu đố bằng thơ, rằng:

Em bầu nậm anh bầu dài
Tròn dài quấn quýt...


Quý bạn làm thơ tiếp đi. Có bạn bảo rằng, tròn dài quấn quýt lai rai hép pỳ (happy). Có bạn lại bảo, tròn dài quấn quýt… sức dai, ngại gì. Đám đông nhao lên, ăn cắp thơ Tố Hữu.

Và nhờ tôi làm trọng tài, tôi đem “thơ” Nguyễn Trọng Tạo ra phân xử, “Tròn dài quấn quýt… sây thai có ngày”. Tụi nhỏ la lên, rằng chú Tạo với chú Mừng ăn gian.

Hì, ăn gian một cách rất chân thành cũng là… happy vậy mà.

N.Đ.M
(SDB11/12-13)








 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN QUANG HÀ                        Truyện kýHoà thượng Thích Đôn Hậu gọi đại đức Thích Trí Diệm lên phòng riêng:- Ta đang mắc công chuyện không thể xa Huế được trong thời gian này, nên ta cử thầy vào chùa Hải Đức, Nha Trang tham gia cuộc thuyết pháp quan trọng tại đó. Thầy đi được chớ?Đại đức Thích Trí Diệm cúi đầu thưa:- Dạ, được ạ.

  • VĨNH NGUYÊN                Truyện kýSau “vụ” gặp em, tôi băn khoăn lắm lắm. Là bởi trước đó - trước quả rốc-két mà chiếc F4H phóng xuống và em bị thương dưới đùi, em đang chờ tháo dây thuyền ở hốc đá, còn tôi thì giữ lấy ống ti-dô cho nước vào hai cái thùng phuy trên thuyền cho em. Hai chiếc thùng phuy 400 lít nước sắp tràn đầy. Như vậy là quá đủ thời gian cho chúng ta có thể hiểu biết về nhau, tên tuổi, quê hương bản quán.

  • ĐẶNG VĂN SỞ          Ghi chépKhông hiểu sao tôi lại đi tìm anh - anh Nguyễn Đức Thuận - người anh chú bác ruột cùng chung sống dưới một mái nhà với tôi. Tôi chỉ nhớ là hồi đó chồng của cô tôi nằm mơ thấy anh, và bác vào tận Nha Trang để đi tìm anh Mậu, người đồng đội và là người chứng kiến lúc chôn cất anh.

  • NGUYỄN QUANG HÀMột buổi sáng vợ chồng anh Thảo, chị Ái đang đèo nhau, phóng xe Honda trên đường Nguyễn Trãi, một con đường lớn của thành phố Huế, bỗng có một người lao thẳng vào xe anh Thảo. Nhờ tay lái thiện nghệ, nên anh Thảo đã phanh xe kịp. Hai vợ chồng dựng xe, ra đỡ nạn nhân dậy.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGBút kýAnh đã xứng đáng với danh hiệu "Nghệ sĩ Nhân dân" của nhà nước ta phong tặng. Riêng Hội Nghệ sĩ điện ảnh Nhật Bản đã tặng cho anh giải thưởng vẻ vang dành cho người nghệ sĩ thuật lại sự tích dân tộc mình bằng điện ảnh...

  • ĐÀO XUÂN QUÝĐã lâu lắm, có đến hơn hai năm, kể từ khi bị tai nạn ở chân tôi chưa đi vào các hiệu sách, kể cả các hiệu sách ở Nha Trang. Đi tới các hiệu sách thì xa quá, đi bộ thì không đi nổi, mệt và nóng lắm, mà đi xe thuê thì cũng khó, vì họ không phải chỉ đưa mình tới nơi mà còn phải đợi hàng giờ khi mình phải tìm chọn sách nơi này nơi nọ, quầy này quầy khác v.v...

  • NGUYỄN THANH CHÍHai mươi tám tuổi, nó không biết chữ và không quen đi dép, mặc áo quần dài; lầm lũi, ít nói nhưng rất khoẻ mạnh... Với nó rừng là nhà, các lối mòn trong rừng thì thuộc như lòng bàn tay... Đó là Trương Ngọc Hoàng, sinh năm 1977.

  • NGUYỄN TRỌNG BÍNHMọi chuyện xẩy ra suốt 55 ngày đêm ở đơn vị trong cuộc tổng tiến công nổi dậy xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tôi đều nhớ như in. Thế mà, lạ lùng thay, suốt thời gian đó, hàng ngày mình ăn thế nào, lại không nhớ nổi. Chỉ nhớ mang máng có lúc ăn cơm nắm, ăn lương khô. Về giấc ngủ, có thể là tranh thủ nửa ngủ nửa thức giữa 2 trận đánh hoặc lúc ngồi trên xe trong đội hình hành tiến. Cố hình dung, tôi nhớ được bữa cơm chiều ở dinh Độc Lập, hôm 30-4-1975.

  • NGÔ MINHỞ CỬA NGÕ XUÂN LỘCSư Đoàn 7 thuộc Quân Đoàn 4 của chúng tôi hành quân từ Bảo Lộc về ém quân trong một rừng chuối mênh mông, chuẩn bị tấn công cứ điểm Xuân Lộc, cửa ngõ Đông Bắc Sài Gòn, đúng đêm 1-4-1975.

  • HUỲNH KIM PHONG(Chào mừng kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng miền , thống nhất đất nước 30.4.1975 - 30.4.2005)

  • LÊ HOÀNG HẢICon người từ khi cảm nhận thế giới xung quanh là lúc cảm được sự xa vắng, ly biệt... Nhớ hồi thơ dại, đứng trên bến sông trước nhà nhìn sang Cồn Hến thấy sông rộng lắm cứ nghĩ khó mà bơi sang sông được. Mỗi lần đi bộ từ nhà lên cầu Gia Hội dù chỉ vài trăm mét nhưng lại cảm thấy rất xa. Càng lớn khôn cảm nhận về khoảng cách được rút ngắn. Nhưng lạ thay khoa học ngày càng khám phá không gian, vũ trụ thì chạm đến cõi vô cùng.

  • HỒ NGỌC PHÚTôi về lại Huế sau trận lụt tuy muộn nhưng khá lớn vào gần cuối tháng 12 năm 2004. Ngồi ở quán cà phê Sơn bên bờ chân cầu Trường Tiền, nhìn sông Hương vào lúc sáng sớm sao thấy khang khác, trong có vẻ như sáng hơn ngày thường.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGĐã lâu tôi không hề nhắc đến hoa, và tôi cảm thấy tôi đã có lỗi đối với những người bạn tâm tình ấy dọc suốt một quãng đời chìm đắm trong khói lửa. Thật ra, những cánh hoa nhỏ bé và mong manh ấy đã viền con đường tuổi trẻ đầy kham khổ của tôi. Chiến chinh qua rồi có nhiều cái tôi đã quên, nhưng những cánh hoa dại dọc đường không hiểu sao tôi vẫn nhớ như in, như thể chúng đã được ấn vào trí nhớ của tôi thành những vết sẹo.

  • NGUYỄN THẾ QUANG(Chuyện tình chưa kể của nhà thơ Hoàng Cầm)

  • VÕ NGỌC LANTôi sinh ra và lớn lên tại vùng Kim Long, một làng nhỏ thuộc vùng cận sơn, không xa Huế là bao. Bởi thuở nhỏ chỉ loanh quanh trong nhà, trong làng ít khi được “đi phố” nên đối với tôi, Huế là một cái gì thật xa cách, thật lạ lùng. Đến nỗi tôi có ý nghĩ buồn cười: “Huế là của người ta, của ai đó, chứ không phải là Huế của tôi”, ngôi chợ mái trường, một khoảng sông xanh ngắt và tiếng chuông chùa Linh Mụ... mấy thứ ấy mới là của tôi.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhân một lần ghé ngang Paris , võ sư người Huế Nguyễn Văn Dũng đã đi thăm sông Seine. Đứng lặng lẽ bên dòng sông thơ mộng bậc nhất nước Pháp, bỗng lòng ông nhớ sông Hương quá trời. Về lại Việt , ngồi bên bờ sông Hương, ông vẫn hãy còn thấy nhớ cồn cào cái dòng chảy thầm thì trong sương mù như một nhát cắt ngọt ngào giữa trái tim đa cảm.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGTôi rẽ vào nhà Thiệp để đưa bé Miên Thảo đi học. Cô bé hét vang nhà để bắt tìm cho ra chiếc dép đi trời mưa lạc nơi đâu không biết. Miên Thảo mặc chiếc quần Jean xanh và khoác áo len đỏ, choàng một chiếc phu la cổ màu đen trông thật đỏm dáng.

  • NGUYỄN QUANG HÀSông Bồ là con sông không dài, nhưng đẹp ở về phía Bắc Huế. Phía tả ngạn, hữu ngạn vùng thượng lưu sông là hai huyện Phong Điền và Hương Trà, vùng hạ lưu sông chảy qua Quảng Điền rồi đổ vào phá Tam Giang. Làng xóm hai bên bờ sông khá trù mật.

  • MINH CHUYÊN (Tiếp Sông Hương số 12-2008)

  • MINH CHUYÊN (Tiếp theo và hết)