Tái ám ảnh về một bài thơ ám ảnh

09:24 11/01/2012

ĐỖ QUYÊN

Nhà thơ Đỗ Quyên - Ảnh: internet


Những kỷ niệm tưởng tượng

                         (Tưởng nhớ nhà thơ Hollo Andras)

Tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054
tôi với anh đã nhìn thấy mặt trời
ngày ta sinh là ngày đầu tiên ta nằm bệnh viện
các bác sĩ hân hoan khi có trẻ ra đời
họ lấy nhau của mẹ ta làm đồ nhắm rượu
các nữ y tá nhìn ta
kinh nguyệt chảy màu máu còn tươi rói
không có bông, họ lấy tà áo choàng lau vội.

Đêm đầu tiên ta nghe những tiếng động đầu tiên
những chú chuột ăn cắp tã vá của ta làm áo choàng vào bệnh viện
chúng sờ lên mặt ta tìm môi ta liếm liếm
rồi chúng ra đi, ta hồi hộp nằm chờ.

Chúng ta lớn lên cùng nhau ăn thịt chó
cùng nhau thấy những con trâu vừa kéo cày vừa đái bừa xuống ruộng
cùng nhau thấy những gái điếm ngủ dọc bờ sông đầu gục xuống
và những chuyến tàu chở đầy ắp vũ khí
trên nóc toa là trẻ nhỏ người già.

Cùng nhau thấy những đám tang không có hòm
chân người chết thò ra khỏi chiếu
cùng nhau thấy những người mẹ bị thương ruột lòi ra
vẫn ôm con nhảy xuống hầm, tranh nhau chỗ ngồi với rắn
và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo
bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi...
Sáng nay em gái tôi đột ngột ra đời
khi nhìn thấy tôi mẹ tôi cười đau khổ,
(mẹ ơi mẹ sinh em đâu phải là tội lỗi)
em tôi nằm mặt cau có đầy nhăn
giữa ngày sinh của chúng ta lần thứ một ngàn.

Đã lâu rồi quạ cũng bay đi
có lẽ một ngày kia chúng sẽ trở về mang theo nhiều xương ống
để làm búp bê cho em tôi chơi
làm dùi cho em tôi đánh trống.

                                                  Budapest, 4-1983


Ám ảnh và Bất an là hai nguồn nuôi các sáng tạo nghệ thuật sống dài lâu với đời. Cái đầu thường thấy ở thơ; cái sau hay gặp trong văn(1).

“Những kỷ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung là một bài thơ đặc sắc đến… rùng mình! Đọc lời bình của Trần Anh Thái trên trang mạng phongdiep.net­­ tôi cũng bị “ám ảnh” theo, và thấy nó ánh lên một thứ nghệ thuật khác lạ. Khác lạ, không chỉ với thơ phương Đông (điều quá rõ!) mà có lẽ cả trong thơ phương Tây. Thi sĩ Anh-Ấn Rudyard Kipling nói ở đâu thì không biết chứ ở sáng tác này Đông và Tây đã “tay nắm trong tay” rồi!

Chia sẻ với các nhận định khái quát của người bình, tôi thử minh họa bằng năm nét sáng trong bài thơ:

1. Thủ pháp áp đặt

Bí kíp là đây! Dẫu chưa cần biết Hollo Andras(2) là ai - miễn là một ông Tây/Tàu/Phi/Mễ/Hàn/v.v... không cùng hoàn cảnh sinh hạ với chủ thể “tôi” - nhưng độc giả vẫn nhận được thi cảm qua thủ pháp áp đặt chủ thể và nhân vật (“tôi với anh”). Nhờ tựa đề đã có các từ “tưởng tượng”, sự áp đặt này logic về trật tự tư duy, dù khiên cưỡng về sắp xếp nghệ thuật. Cái khiên cưỡng đã gợi vẻ kỳ quái của thơ. Đến lượt mình, cái phi lý lại giải khiên cưỡng, trả thơ về đời thường.

2. Thủ pháp phi lý

2.1. Phi lý về thời gian khiến độc giả choáng ngay ở câu đầu (“Tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054”) cho tới câu “tôi với anh...”, rồi “ngày ta sinh...”! Bạn có thể hỏi: Cái “ông Tây” Hollo Andras nào kia chắc cùng thời vua Lý Thái Tông nhà mình, sao lại đi đánh bạn với “tay nhà thơ” Trương Đăng Dung này? Hay lỗi nhà báo in sai - 1954? Đọc tới câu “giữa ngày sinh của chúng ta lần thứ một ngàn” đặt gần đoạn kết, ta càng thấy họ Trương quả có nghênh ngang thật đấy nhưng đến là khôn; và lại khéo nữa!

2.2. Phi lý về không gian địa lý (Âu-Á), về hoàn cảnh xã hội (Tây-Ta) được khỏa lấp bằng loạt hình ảnh siêu thực, phi thực hay cực thực, tạo bất an nơi người đọc ngay từ đoạn đầu. Thế rồi lý trí lại bị che lấp trong chuỗi tự sự đầu cua tai nheo. Nhân vật phụ “em gái tôi” xuất hiện (“đột ngột ra đời”) như giải pháp mạnh, hợp lý hóa sự phi lý không gian, hoàn cảnh; Và cũng để lý giải cho sự hồi tưởng song sinh của “tôi” “anh”. Nhân vật phụ ấy vụt trở thành “VIP” trong tác phẩm! Nhân bản là chỗ này: sinh nở gọi sinh nở! Trữ tình cũng là đấy! Nếu đọc ẩu sẽ tưởng như một dòng hồi ức bằng thơ, khùng dở và rời rạc, dằn vặt và khô khan.

2.3. Phi lý về ngữ nghĩa ở hàng loạt tượng hình siêu/phi/cực thực (“lấy nhau ... làm đồ nhắm rượu”, “chuột ăn cắp tã vá”, “tranh nhau chỗ ngồi với rắn”...) đã dung hòa, nhất là đã xoa dịu các hiện thực có thật trong đó nhà thơ, khoảng 40 năm trước, từng là một chứng nhân cho thời kỳ bi thương của đất nước Việt Nam mà quê hương miền Trung của ông là tuyến đầu. Ở sáng tác này, yếu tố hiện thực huyền ảo đáng được thưởng huân chương chiến công về một bút pháp! Cái “ký ức đau thương, xa xót”, cái “ấn tượng đau thương, quằn quại”, nhờ đó, đã vượt lên bề mặt của văn bản, khiến văn bản lớn dậy và trở thành tác phẩm. Viết về hậu chiến mà đạt tới độ-không như vậy, chiến tranh chỉ còn biết treo cờ trắng!

2.4. Phi lý về kết cấu: bài thơ nom xộc xệch; như dang dở. Đúng là một xâu “kỷ niệm” không chỉ “tưởng tượng” mà còn đầu Ngô mình Sở; như thể câu nói vô thức liền hơi bạ gì kể nấy. Mở và kết đều đột ngột, tạo sốc, nhưng nhộn nhàng, hồn nhiên. Giống câu chuyện cổ tích thời a-còng!

2.5. Phi lý về cảm hứng chủ đạo giữa cái Bi và cái Hài, cái Trữ tình và cái Tự sự; trong đó hai cái sau (Hài, Tự sự) nói chung là xa lạ với thơ Việt.

3. Thủ pháp thành phần phụ

Có thể nói, bài thơ của Trương Đăng Dung đã dùng thủ pháp này hết mức; từ tựa đề, tới lời đề tặng và cuối cùng là địa điểm, thời gian viết. Tức là toàn bộ văn bản, từ đầu đến chân. Tựa đề, như đã nói ở trên, thành quả là ở các từ “tưởng tượng”. Lời đề tặng “Tưởng nhớ nhà thơ Hollo Andras” khẳng định thêm các trích ngang về nhân vật “anh”. Địa điểm, thời gian làm bài thơ “Budapest, 4-1983”, nhất là mốc “1983” dự phần vào các điểm 2.1, 2.2. (Ở bản đăng trên trang tapchisonghuong.com.vn 18-8-2009 thì là các con số  “5-1984”. Chúng càng trở nên đẹp khi sánh với câu thơ đầu tiên và át chủ; ta hãy đọc lại: “Tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054”). Tức là, bài thơ với “ba mươi hai câu” thơ ấy có cả thảy ba-mươi-lăm-dòng-thơ.

Thông thường, phần “phụ tùng” của một bài thơ rất dễ bị (và nhiều khi là được) những “mẫu nghi thiên hạ thơ” ở các tòa soạn ra tay sửa chữa, cắt gọt, thậm chí... liệng đi cho gọn! Tựa đề thì khỏi nói; dù sao cũng là đỉnh núi chứa tinh túy và chủ ý của toàn tác phẩm (Thật ra, tựa đề, nếu không là thành phần chính thì cũng không bao giờ là một thành phần phụ! Ở đây chỉ muốn khu biệt nó, cùng hai cái “phụ tùng” kia, với thân bài thơ). Nhưng còn lời đề tặng và địa điểm, thời gian hoàn thành, dường như ít được người đọc, người biên tập ngó tới khi thưởng thức, xem xét; thi thoảng có nhà phê bình để mắt khi cần tìm hiểu. Thế nên, không chỉ với bài “Những kỷ niệm tưởng tượng”, người viết xin được mạnh bạo cho rằng, với không ít thi phẩm, hai phần phụ đó có thể mang chở các thông tin hữu ích về nội hàm và ngoại vi thơ(3).

4. Thủ pháp kết hợp Đông-Tây

Biểu hiện thi ca qua các yếu tố văn hóa (từ phong tục ẩm thực “cùng nhau ăn thịt chó” tới sinh hoạt “làm búp bê cho em tôi chơi”), y tế (“các bác sĩ hân hoan khi có trẻ ra đời”) và cốt tử ở bài thơ này là yếu tố chiến tranh (“và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo/ bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi...) của hai khu vực Đông-Tây, hai lãnh địa Á-Âu đã được diễn đạt không úp mở qua cả nội dung tư tưởng lẫn cấu trúc, hình tượng.

Mạnh hơn các thủ pháp khác, thủ pháp xóa nhòa không nhân nhượng mọi đường biên giới quốc gia, dân tộc, cá thể trong bài thơ đã làm rõ một nhân sinh quan phổ cập từng được nổi danh qua nhà thơ Nga Konstantin Simonov với “Nỗi đau này đâu chỉ của riêng ai”. Phải rồi, đó là của “chúng ta”, bởi đã “lớn lên cùng nhau”, “cùng nhau thấy...”, cùng nhau thấy....” “cùng nhau thấy...”! Chúng ta - đó là Hollo Andras và Trương Đăng Dung, là Trần Anh Thái và Đỗ Quyên, là Sông Hươngphongdiep.net, là v.v... và v.v... Danh sách chủ thể và đối tượng thơ cứ kéo dài theo hành trình tiếp nhận. Nghệ thuật thơ là vậy!

5. Thủ pháp điểm rơi của bài thơ

Thiển nghĩ, không chỉ như nhà bình thơ đã nói - “Vào thời điểm ấy (1983), nếu được in ở ­­trong nước, bài thơ của ông sẽ thật độc đáo và lạ lẫm.” - mà ngay bây giờ, 2011, nó vẫn “độc đáo và lạ lẫm” về cách dẫn dắt thơ và về giọng điệu thơ, về thi ảnh và về thi phận. Tôi, và chắc là những ai đọc kĩ Trương Đăng Dung, chỉ ngạc nhiên khi mãi đến giờ ông mới cho ra tập thơ đầu đời, mà không hề ngạc nhiên khi bài này được làm tên của tập thơ: “Những kỷ niệm tưởng tượng”, NXB Thế giới, Hà Nội 2011 - một “điểm rơi” quan trọng của bài thơ. Và tin rằng tập thơ ấy chưa là điểm rơi cuối cùng của bài thơ.

Thi ca Việt Nam còn chưa qua cái thời né tránh hiện thực thô, thẳng; nên nếu đọc nhanh đọc đều bài “Những kỷ niệm tưởng tượng” giữa cả một dòng-thơ-thô-thẳng hôm nay, có lẽ ta sẽ dễ để trượt khỏi mắt mình cái Siêu lấp la lấp lánh từ cái Thực chói chang của tác phẩm. Sau lời kể của tác giả về sự ra đời của bài thơ (theo Trần Hoàng Thiên Kim; antgct.cand.com.vn 6-9-2011), tôi muốn được “tự thưởng” mình khi lặp lại các chữ viết từ hai năm trước: “cái Siêu lấp la lấp lánh từ cái Thực chói chang” là phương pháp của nghệ thuật Trương Đăng Dung.


Sau tập thơ nói trên, độc giả đang quen biết hơn với Trương Đăng Dung như một nhà thơ Việt Nam hiện đại đã tạo được phong cách riêng và mới, có thể gọi là suy tưởng bằng biểu tượng theo không gian và thời gian, trong các sáng tác ít về số lượng, thưa về cảm xúc và tĩnh về dụng ngôn - 3 yếu tố sau cùng có thể không quyết định sự thành thơ và thường là định vị nghề nghiệp. Thế nhưng bài thơ Những kỷ niệm tưởng tượng” vẫn sẽ còn là một tác phẩm lạ lùng của thơ Việt Nam và của thơ thế giới đương đại. Nó có mặt ở nhiều tọa độ trong và ngoài thơ: Nối thế kỷ 20 và thế kỷ 21, về thi pháp sáng tạo. Nối hai bờ Đông-Tây, bằng truyền thống và hiện đại của mỗi xứ sở. Nối các sinh mạng trong thế gian bất hạnh của hạnh phúc, ­­bằng hiện thực của lãng mạn, bằng sự thật của tưởng tượng. Và, nối cái vô lý và cái hữu tình, trong tư tưởng nhân loại.

Ám ảnh là nguồn sống của thi ca.

Thay cho từng lời cám ơn nhà thơ Trương Đăng Dung, cám ơn nhà bình thơ Trần Anh Thái, cám ơn các diễn đàn thơ Hungary, Việt Nam: Tác Phẩm Mới, Sông Hươngphongdiep.net, mời tất cả chúng ta cùng có lời tổng cám ơn Nàng Thơ - mẫu nghi của thiên địa!


Vancouver, 23-10-2009 & 15-9-2011
Đ.Q
(SH275/1-12)





------------------------------------
(1) - Nhà thơ Argentina Javier Adúriz có quan niệm rằng thi sĩ phải viết ra những gì gây ấn tượng dai dẳng. Nhà văn Nguyễn Thành Long từng coi bất an là đặc trưng thể loại của truyện ngắn; Tôi thấy không chỉ rất đúng, ví như với truyện ngắn của Lỗ Tấn, Nguyễn Huy Thiệp, Daniil Kharms, v.v…, mà cả với một số tiểu thuyết (như của Albert Camus) và với tùy bút (Hoàng Phủ Ngọc Tường); và có lẽ vì thế bất an (angoisse) đã là tâm trạng làm nên triết học hiện sinh (J.-P. Sartre)?
(2) - Hollo Andras là nhà thơ Hungary, tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Budapest năm 1977, là một trong những văn nghệ sĩ các nước XHCN cũ ở Đông Âu dành nhiều thiện cảm với Việt Nam. Tác giả Trương Đăng Dung đã học và nghiên cứu ở đó, là người dịch nhiều bài thơ của Andras ra tiếng Việt.
(3) - Người viết cũng đã lưu tâm tới ý nghĩa của các thành phần phụ trong một bài thơ, và xin khất ở dịp khác. Một ví dụ khá rõ cho “sức mạnh” của lời đề tặng là với bài thơ “Nếu” của Nguyễn Đức Tùng (http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12515&rb=0101)







 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong cuốn sách dịch, đúng hơn là trích dịch Những vấn đề thi pháp Đoxtoiepxki của M.M Bakhtin, chúng tôi đã giới thiệu những lời đánh giá quan trọng của các học giả thế kỷ XX đối với Bakhtin: "Bakhtin, nhà lý luận văn học lớn nhất của thế kỷ XX" (TS. Todorov). "Bakhtin, người giữ cho các khoa học nhân văn đối tượng riêng của chúng" (X.X. Avêzinxép), "Bakhtin, người đem lại một quan niệm hoàn toàn mới về ngôn từ tiểu thuyết" (A. Tritrêrin)...

  • PHONG LÊViệc xác định một đề tài nghiên cứu cho bất cứ ai bước vào con đường khoa học, theo tôi là động tác quan trọng đầu tiên, có ý nghĩa quyết định, như là một ô cửa, một đột phá khẩu trổ ra cái bầu trời, hoặc quang đãng hoặc vần vụ mưa gió, rồi anh ta sẽ được bay lượn ở trong đó.

  • ĐỖ LAI THUÝNgàn mây tràng giang buồn muôn đời                                 Nguyễn Xuân Sanh

  • VŨ QUẦN PHƯƠNGTên thật cũng là bút danh, sinh ngày 18-9-1949 tại quê gốc huyện Lệ Thuỷ, Quảng Bình.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một số lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60-70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • HỒ TIỂU NGỌCLTS: Nhân dịp kỷ niệm 53 năm Quốc khánh nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài thơ sau đây của tác giả Đoàn Duy Thành. Bài thơ thể hiện tình hữu nghị cao quý của nhân dân hai nước Việt - Trung.

  • HỒNG NHU            (Tham luận tại Hội nghị Văn học Miền Trung lần thứ II tháng 9-2002) LTS: Hội nghị văn học miền Trung lần thứ hai vừa diễn ra tại thị xã Sầm Sơn, Thanh Hoá trong 2 ngày 19 và 20 tháng 9 năm 2002. Gần 80 nhà văn của 18 tỉnh thành từ Bình Thuận đến Thanh Hoá đã về dự. Ngoài ra còn có đại diện các hội đồng chuyên môn, các ban công tác, các cơ quan báo chí xuất bản của Hội Nhà văn Việt cũng có mặt trong cuộc hội ngộ này.

  • THÁI BÁ LỢIMột nhà văn lớp đàn anh của tôi tâm sự: Chỉ có miền Trung mới có văn xuôi thôi, vì ở đây từ đất đai, khí hậu con người luôn luôn được thử thách, được cọ xát, được tôi rèn, với hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy mới bật ra tư tưởng, mà văn xuôi là tư tưởng.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Không nhà thơ nào muốn lặp lại những gì thơ ca đã có, kể cả lặp lại chính mình. Đi tìm cái lạ cái mới, chính là bản chất của sáng tạo.

  • NGUYỄN QUANG HÀHình như trong máu của người Việt đều có một chút máu thi nhân. Cho nên thấy ai cũng mê thơ cả. Chả thế mà tít mãi vùng hẻo lánh, các bà mẹ ru con bằng Kiều, bằng ca dao. Lời ru giống như một sự ngẫu hứng, cứ thế tự trào ra từ tâm hồn mình.

  • TRẦN THANH ĐẠMNgày13 tháng 06 năm 2002 vừa qua là dịp kỷ niệm lần thứ 75 ngày mất của một trong những nhà yêu nước và cách mạng tiền bối, một nhà giáo dục lớn của nước ta đầu thế kỷ XX: chí sĩ Lương Văn Can (1854-1927).

  • LÊ HỒNG SÂM Cách đây mươi năm, trong một cuộc phỏng vấn thân mật, chị Lộc Phương Thuỷ có hỏi tôi về những kỷ niệm đáng nhớ, liên quan đến văn học, nhất là văn học Pháp. Tôi đã kể cho chị Thuỷ mẩu chuyện nhỏ mà hôm nay tôi xin thuật lại, dưới tiêu đề phù hợp với một trong hai nội dung của hội thảo Fantine, Cosette và chiếc đòn gánh Việt .

  • HỒNG NHULTS: Những cuộc trao đổi mang tính nghề nghiệp về thơ ở tầm "vĩ mô" dường như đang co lại ở tầm "vi mô". Các ý kiến khác nhau, thậm chí ngược nhau trong tranh luận học thuật là chuyện bình thường. Song, sẽ không bình thường khi công cuộc đổi mới của Đảng đã bước vào nền kinh tế tri thức mà vẫn còn những "tư duy thơ" theo cơ chế suy diễn với những mục đích gì đó, ngoài thơ.Nhằm rộng đường dư luận, Sông Hương xin được trao đổi lại một trường hợp cụ thể sau đây.

  • MAI VĂN HOANỞ Huế tôi đã có nghe bạn bè nói sơ qua về cuộc hội thảo tập thơ "Đám mây lơ lửng" của Hoàng Vũ Thuật, tác phẩm đoạt giải A giải thưởng VH-NT Lưu Trọng Lư lần thứ hai (1996 - 2000) do Hội Văn nghệ Quảng Bình tổ chức.

  • ĐÀO DUY HIỆP“Đi tìm thời gian đã mất” của Marcel Proust (1871-1922) là một tiểu thuyết đồ sộ gồm bảy tập với trên dưới ba nghìn trang ngày nay đã được độc giả toàn thế giới say sưa đón đọc và được nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu đánh giá rất cao.

  • THÁI THU LANThông thường, mỗi văn nhân nghệ sĩ đều có nỗi đau đời, nỗi đau nhân thế. Nỗi đau này băt nguồn từ tấm lòng nhân ái và ý thức trách nhiệm của người nghệ sĩ trước cuộc sống và số phận con người qua những biến động của xã hội.

  • HOÀNG QUẢNG UYÊNTôi yêu mến và quý trọng những câu thơ như là "không thơ" của chị:Câu thơ nước chảy bèo trôi/ Vẫn nghiêng về phía phận đời khổ đau. (Hương cỏ)

  • FRANÇOIS JULLIEN                                        LTS: Hạ tuần tháng tư năm 2001, nhà triết học F.Jullien đến thăm Hà Nội nhân dịp lần đầu tiên công trình của ông được giới thiệu ở Việt Nam trong văn bản tiếng Việt (Xác lập cơ sở cho đạo đức- N.x.b Đà Nẵng, 2000). Cuối năm nay sẽ được xuất bản bản dịch công trình Bàn về tính hiệu quả ( F.Jullien. Traité de l’efficacité.Grasset, 1997). Sau đây là bản dịch chương III của tác phẩm này (do khuôn khổ của tạp chí, có lược đi một số đoạn). Nhan đề do chúng tôi đặt. Trong bài, số thiên đơn thuần (chẳng hạn th.81) là số thiên trong sách Đạo Đức Kinh còn gọi là sách Lão tử.

  • NGÔ MINH Tôi quen biết với anh Tường hơn 25 năm nay ở Huế như một người bạn vong niên thân thiết. Trong máy tính của tôi còn lưu trữ bài Anh Tường ơi viết từ năm 1998, gần 3000 chữ chưa công bố. Đó là bài viết mà nhà văn Nguyễn Quang Hà, Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương lúc đó, bảo tôi viết, sau chuyến chúng tôi đi thăm anh Tường bị trọng bệnh đang nằm hôn mê ở Bệnh viện Đà Nẵng về.

  • HỒ THẾ HÀHoàng Phủ Ngọc Tường dấn thân vào nghiệp bút nghiên bằng thơ cùng những năm tháng "hát cho đồng bào tôi nghe" sục sôi nhiệt huyết đấu tranh chống thù và ước mơ hòa bình trên quê mẹ Việt yêu dấu.