Tái ám ảnh về một bài thơ ám ảnh

09:24 11/01/2012

ĐỖ QUYÊN

Nhà thơ Đỗ Quyên - Ảnh: internet


Những kỷ niệm tưởng tượng

                         (Tưởng nhớ nhà thơ Hollo Andras)

Tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054
tôi với anh đã nhìn thấy mặt trời
ngày ta sinh là ngày đầu tiên ta nằm bệnh viện
các bác sĩ hân hoan khi có trẻ ra đời
họ lấy nhau của mẹ ta làm đồ nhắm rượu
các nữ y tá nhìn ta
kinh nguyệt chảy màu máu còn tươi rói
không có bông, họ lấy tà áo choàng lau vội.

Đêm đầu tiên ta nghe những tiếng động đầu tiên
những chú chuột ăn cắp tã vá của ta làm áo choàng vào bệnh viện
chúng sờ lên mặt ta tìm môi ta liếm liếm
rồi chúng ra đi, ta hồi hộp nằm chờ.

Chúng ta lớn lên cùng nhau ăn thịt chó
cùng nhau thấy những con trâu vừa kéo cày vừa đái bừa xuống ruộng
cùng nhau thấy những gái điếm ngủ dọc bờ sông đầu gục xuống
và những chuyến tàu chở đầy ắp vũ khí
trên nóc toa là trẻ nhỏ người già.

Cùng nhau thấy những đám tang không có hòm
chân người chết thò ra khỏi chiếu
cùng nhau thấy những người mẹ bị thương ruột lòi ra
vẫn ôm con nhảy xuống hầm, tranh nhau chỗ ngồi với rắn
và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo
bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi...
Sáng nay em gái tôi đột ngột ra đời
khi nhìn thấy tôi mẹ tôi cười đau khổ,
(mẹ ơi mẹ sinh em đâu phải là tội lỗi)
em tôi nằm mặt cau có đầy nhăn
giữa ngày sinh của chúng ta lần thứ một ngàn.

Đã lâu rồi quạ cũng bay đi
có lẽ một ngày kia chúng sẽ trở về mang theo nhiều xương ống
để làm búp bê cho em tôi chơi
làm dùi cho em tôi đánh trống.

                                                  Budapest, 4-1983


Ám ảnh và Bất an là hai nguồn nuôi các sáng tạo nghệ thuật sống dài lâu với đời. Cái đầu thường thấy ở thơ; cái sau hay gặp trong văn(1).

“Những kỷ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung là một bài thơ đặc sắc đến… rùng mình! Đọc lời bình của Trần Anh Thái trên trang mạng phongdiep.net­­ tôi cũng bị “ám ảnh” theo, và thấy nó ánh lên một thứ nghệ thuật khác lạ. Khác lạ, không chỉ với thơ phương Đông (điều quá rõ!) mà có lẽ cả trong thơ phương Tây. Thi sĩ Anh-Ấn Rudyard Kipling nói ở đâu thì không biết chứ ở sáng tác này Đông và Tây đã “tay nắm trong tay” rồi!

Chia sẻ với các nhận định khái quát của người bình, tôi thử minh họa bằng năm nét sáng trong bài thơ:

1. Thủ pháp áp đặt

Bí kíp là đây! Dẫu chưa cần biết Hollo Andras(2) là ai - miễn là một ông Tây/Tàu/Phi/Mễ/Hàn/v.v... không cùng hoàn cảnh sinh hạ với chủ thể “tôi” - nhưng độc giả vẫn nhận được thi cảm qua thủ pháp áp đặt chủ thể và nhân vật (“tôi với anh”). Nhờ tựa đề đã có các từ “tưởng tượng”, sự áp đặt này logic về trật tự tư duy, dù khiên cưỡng về sắp xếp nghệ thuật. Cái khiên cưỡng đã gợi vẻ kỳ quái của thơ. Đến lượt mình, cái phi lý lại giải khiên cưỡng, trả thơ về đời thường.

2. Thủ pháp phi lý

2.1. Phi lý về thời gian khiến độc giả choáng ngay ở câu đầu (“Tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054”) cho tới câu “tôi với anh...”, rồi “ngày ta sinh...”! Bạn có thể hỏi: Cái “ông Tây” Hollo Andras nào kia chắc cùng thời vua Lý Thái Tông nhà mình, sao lại đi đánh bạn với “tay nhà thơ” Trương Đăng Dung này? Hay lỗi nhà báo in sai - 1954? Đọc tới câu “giữa ngày sinh của chúng ta lần thứ một ngàn” đặt gần đoạn kết, ta càng thấy họ Trương quả có nghênh ngang thật đấy nhưng đến là khôn; và lại khéo nữa!

2.2. Phi lý về không gian địa lý (Âu-Á), về hoàn cảnh xã hội (Tây-Ta) được khỏa lấp bằng loạt hình ảnh siêu thực, phi thực hay cực thực, tạo bất an nơi người đọc ngay từ đoạn đầu. Thế rồi lý trí lại bị che lấp trong chuỗi tự sự đầu cua tai nheo. Nhân vật phụ “em gái tôi” xuất hiện (“đột ngột ra đời”) như giải pháp mạnh, hợp lý hóa sự phi lý không gian, hoàn cảnh; Và cũng để lý giải cho sự hồi tưởng song sinh của “tôi” “anh”. Nhân vật phụ ấy vụt trở thành “VIP” trong tác phẩm! Nhân bản là chỗ này: sinh nở gọi sinh nở! Trữ tình cũng là đấy! Nếu đọc ẩu sẽ tưởng như một dòng hồi ức bằng thơ, khùng dở và rời rạc, dằn vặt và khô khan.

2.3. Phi lý về ngữ nghĩa ở hàng loạt tượng hình siêu/phi/cực thực (“lấy nhau ... làm đồ nhắm rượu”, “chuột ăn cắp tã vá”, “tranh nhau chỗ ngồi với rắn”...) đã dung hòa, nhất là đã xoa dịu các hiện thực có thật trong đó nhà thơ, khoảng 40 năm trước, từng là một chứng nhân cho thời kỳ bi thương của đất nước Việt Nam mà quê hương miền Trung của ông là tuyến đầu. Ở sáng tác này, yếu tố hiện thực huyền ảo đáng được thưởng huân chương chiến công về một bút pháp! Cái “ký ức đau thương, xa xót”, cái “ấn tượng đau thương, quằn quại”, nhờ đó, đã vượt lên bề mặt của văn bản, khiến văn bản lớn dậy và trở thành tác phẩm. Viết về hậu chiến mà đạt tới độ-không như vậy, chiến tranh chỉ còn biết treo cờ trắng!

2.4. Phi lý về kết cấu: bài thơ nom xộc xệch; như dang dở. Đúng là một xâu “kỷ niệm” không chỉ “tưởng tượng” mà còn đầu Ngô mình Sở; như thể câu nói vô thức liền hơi bạ gì kể nấy. Mở và kết đều đột ngột, tạo sốc, nhưng nhộn nhàng, hồn nhiên. Giống câu chuyện cổ tích thời a-còng!

2.5. Phi lý về cảm hứng chủ đạo giữa cái Bi và cái Hài, cái Trữ tình và cái Tự sự; trong đó hai cái sau (Hài, Tự sự) nói chung là xa lạ với thơ Việt.

3. Thủ pháp thành phần phụ

Có thể nói, bài thơ của Trương Đăng Dung đã dùng thủ pháp này hết mức; từ tựa đề, tới lời đề tặng và cuối cùng là địa điểm, thời gian viết. Tức là toàn bộ văn bản, từ đầu đến chân. Tựa đề, như đã nói ở trên, thành quả là ở các từ “tưởng tượng”. Lời đề tặng “Tưởng nhớ nhà thơ Hollo Andras” khẳng định thêm các trích ngang về nhân vật “anh”. Địa điểm, thời gian làm bài thơ “Budapest, 4-1983”, nhất là mốc “1983” dự phần vào các điểm 2.1, 2.2. (Ở bản đăng trên trang tapchisonghuong.com.vn 18-8-2009 thì là các con số  “5-1984”. Chúng càng trở nên đẹp khi sánh với câu thơ đầu tiên và át chủ; ta hãy đọc lại: “Tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054”). Tức là, bài thơ với “ba mươi hai câu” thơ ấy có cả thảy ba-mươi-lăm-dòng-thơ.

Thông thường, phần “phụ tùng” của một bài thơ rất dễ bị (và nhiều khi là được) những “mẫu nghi thiên hạ thơ” ở các tòa soạn ra tay sửa chữa, cắt gọt, thậm chí... liệng đi cho gọn! Tựa đề thì khỏi nói; dù sao cũng là đỉnh núi chứa tinh túy và chủ ý của toàn tác phẩm (Thật ra, tựa đề, nếu không là thành phần chính thì cũng không bao giờ là một thành phần phụ! Ở đây chỉ muốn khu biệt nó, cùng hai cái “phụ tùng” kia, với thân bài thơ). Nhưng còn lời đề tặng và địa điểm, thời gian hoàn thành, dường như ít được người đọc, người biên tập ngó tới khi thưởng thức, xem xét; thi thoảng có nhà phê bình để mắt khi cần tìm hiểu. Thế nên, không chỉ với bài “Những kỷ niệm tưởng tượng”, người viết xin được mạnh bạo cho rằng, với không ít thi phẩm, hai phần phụ đó có thể mang chở các thông tin hữu ích về nội hàm và ngoại vi thơ(3).

4. Thủ pháp kết hợp Đông-Tây

Biểu hiện thi ca qua các yếu tố văn hóa (từ phong tục ẩm thực “cùng nhau ăn thịt chó” tới sinh hoạt “làm búp bê cho em tôi chơi”), y tế (“các bác sĩ hân hoan khi có trẻ ra đời”) và cốt tử ở bài thơ này là yếu tố chiến tranh (“và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo/ bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi...) của hai khu vực Đông-Tây, hai lãnh địa Á-Âu đã được diễn đạt không úp mở qua cả nội dung tư tưởng lẫn cấu trúc, hình tượng.

Mạnh hơn các thủ pháp khác, thủ pháp xóa nhòa không nhân nhượng mọi đường biên giới quốc gia, dân tộc, cá thể trong bài thơ đã làm rõ một nhân sinh quan phổ cập từng được nổi danh qua nhà thơ Nga Konstantin Simonov với “Nỗi đau này đâu chỉ của riêng ai”. Phải rồi, đó là của “chúng ta”, bởi đã “lớn lên cùng nhau”, “cùng nhau thấy...”, cùng nhau thấy....” “cùng nhau thấy...”! Chúng ta - đó là Hollo Andras và Trương Đăng Dung, là Trần Anh Thái và Đỗ Quyên, là Sông Hươngphongdiep.net, là v.v... và v.v... Danh sách chủ thể và đối tượng thơ cứ kéo dài theo hành trình tiếp nhận. Nghệ thuật thơ là vậy!

5. Thủ pháp điểm rơi của bài thơ

Thiển nghĩ, không chỉ như nhà bình thơ đã nói - “Vào thời điểm ấy (1983), nếu được in ở ­­trong nước, bài thơ của ông sẽ thật độc đáo và lạ lẫm.” - mà ngay bây giờ, 2011, nó vẫn “độc đáo và lạ lẫm” về cách dẫn dắt thơ và về giọng điệu thơ, về thi ảnh và về thi phận. Tôi, và chắc là những ai đọc kĩ Trương Đăng Dung, chỉ ngạc nhiên khi mãi đến giờ ông mới cho ra tập thơ đầu đời, mà không hề ngạc nhiên khi bài này được làm tên của tập thơ: “Những kỷ niệm tưởng tượng”, NXB Thế giới, Hà Nội 2011 - một “điểm rơi” quan trọng của bài thơ. Và tin rằng tập thơ ấy chưa là điểm rơi cuối cùng của bài thơ.

Thi ca Việt Nam còn chưa qua cái thời né tránh hiện thực thô, thẳng; nên nếu đọc nhanh đọc đều bài “Những kỷ niệm tưởng tượng” giữa cả một dòng-thơ-thô-thẳng hôm nay, có lẽ ta sẽ dễ để trượt khỏi mắt mình cái Siêu lấp la lấp lánh từ cái Thực chói chang của tác phẩm. Sau lời kể của tác giả về sự ra đời của bài thơ (theo Trần Hoàng Thiên Kim; antgct.cand.com.vn 6-9-2011), tôi muốn được “tự thưởng” mình khi lặp lại các chữ viết từ hai năm trước: “cái Siêu lấp la lấp lánh từ cái Thực chói chang” là phương pháp của nghệ thuật Trương Đăng Dung.


Sau tập thơ nói trên, độc giả đang quen biết hơn với Trương Đăng Dung như một nhà thơ Việt Nam hiện đại đã tạo được phong cách riêng và mới, có thể gọi là suy tưởng bằng biểu tượng theo không gian và thời gian, trong các sáng tác ít về số lượng, thưa về cảm xúc và tĩnh về dụng ngôn - 3 yếu tố sau cùng có thể không quyết định sự thành thơ và thường là định vị nghề nghiệp. Thế nhưng bài thơ Những kỷ niệm tưởng tượng” vẫn sẽ còn là một tác phẩm lạ lùng của thơ Việt Nam và của thơ thế giới đương đại. Nó có mặt ở nhiều tọa độ trong và ngoài thơ: Nối thế kỷ 20 và thế kỷ 21, về thi pháp sáng tạo. Nối hai bờ Đông-Tây, bằng truyền thống và hiện đại của mỗi xứ sở. Nối các sinh mạng trong thế gian bất hạnh của hạnh phúc, ­­bằng hiện thực của lãng mạn, bằng sự thật của tưởng tượng. Và, nối cái vô lý và cái hữu tình, trong tư tưởng nhân loại.

Ám ảnh là nguồn sống của thi ca.

Thay cho từng lời cám ơn nhà thơ Trương Đăng Dung, cám ơn nhà bình thơ Trần Anh Thái, cám ơn các diễn đàn thơ Hungary, Việt Nam: Tác Phẩm Mới, Sông Hươngphongdiep.net, mời tất cả chúng ta cùng có lời tổng cám ơn Nàng Thơ - mẫu nghi của thiên địa!


Vancouver, 23-10-2009 & 15-9-2011
Đ.Q
(SH275/1-12)





------------------------------------
(1) - Nhà thơ Argentina Javier Adúriz có quan niệm rằng thi sĩ phải viết ra những gì gây ấn tượng dai dẳng. Nhà văn Nguyễn Thành Long từng coi bất an là đặc trưng thể loại của truyện ngắn; Tôi thấy không chỉ rất đúng, ví như với truyện ngắn của Lỗ Tấn, Nguyễn Huy Thiệp, Daniil Kharms, v.v…, mà cả với một số tiểu thuyết (như của Albert Camus) và với tùy bút (Hoàng Phủ Ngọc Tường); và có lẽ vì thế bất an (angoisse) đã là tâm trạng làm nên triết học hiện sinh (J.-P. Sartre)?
(2) - Hollo Andras là nhà thơ Hungary, tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Budapest năm 1977, là một trong những văn nghệ sĩ các nước XHCN cũ ở Đông Âu dành nhiều thiện cảm với Việt Nam. Tác giả Trương Đăng Dung đã học và nghiên cứu ở đó, là người dịch nhiều bài thơ của Andras ra tiếng Việt.
(3) - Người viết cũng đã lưu tâm tới ý nghĩa của các thành phần phụ trong một bài thơ, và xin khất ở dịp khác. Một ví dụ khá rõ cho “sức mạnh” của lời đề tặng là với bài thơ “Nếu” của Nguyễn Đức Tùng (http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12515&rb=0101)







 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.