Tác phẩm cuối của Hàn Mặc Tử

15:02 23/12/2016

Làng phong Quy Hòa (TP.Quy Nhơn, Bình Định) nằm lẩn khuất sau một con đèo quanh co ở phía nam thành phố. Nơi này, nhà thơ Hàn Mặc Tử đã sống những ngày cuối đời, chống chọi với bệnh tật.

Trong phòng lưu niệm Hàn Mặc Tử ở làng phong - Ảnh: Tâm Ngọc

Nhà thơ ẩn mình ở làng phong
 
Chúng tôi trở lại làng phong Quy Hòa một chiều đông, khi những cơn mưa đang dần nặng hạt. Ông Huỳnh Ngọc Hải (79 tuổi, quê ở Quảng Nam) tiếp chúng tôi sau khi được sự giới thiệu của ông chủ tịch hội đồng người bệnh phong ở đây. Ông Hải là một trong số ít người lớn tuổi của làng, chứng kiến những hình thành và đổi thay từ những năm 1970. Những câu chuyện, giai thoại về nhà thơ Hàn Mặc Tử được người làng, trong đó có ông lưu lại như một niềm tự hào.
 
Hàn Mặc Tử (tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912) bị phát hiện mắc bệnh từ năm 1936. Trong một lần kỳ lưng giúp con trai, mẹ Hàn Mặc Tử phát hiện có những đốm màu hồng nhạt. Lúc đầu, mọi người nghĩ đơn giản là nổi mề đay do dị ứng nhưng rồi, những đốm này ngày càng lan rộng và đỏ tấy lên. Tử được chẩn đoán là mắc bệnh phong. Thời bấy giờ, bệnh phong là một trong tứ bệnh nan y, là án tử treo lơ lửng mà ai mắc phải đều trải qua những tháng ngày đày đọa đáng sợ tới lúc chết. Lúc này, Hàn Mặc Tử được gia đình đưa đi sống kiểu chạy trốn ở khắp nơi, từ Bồng Sơn (H.Hoài Nhơn, Bình Định) tới Gò Bồi (H.Tuy Phước, Bình Định) đến TP.Quy Nhơn. Sau đó, khi bệnh trở nặng mới đưa vào làng phong chữa trị.
 
“Không một ai ở đây biết Hàn Mặc Tử là nhà thơ cả. Mãi cho đến lúc chết, khi lục lại đồ đạc, kỷ vật của ổng thì thấy một bài văn viết bằng tiếng Pháp có tên La pureté de l’âme nghĩa là Sự trong sạch của tâm hồn. Lúc này, cả làng mới biết ông là nhà thơ. Bởi hồi ấy, những người vào sống ở đây đều có một mặc cảm rất lớn với xã hội. Nên sống cùng nhau đó nhưng gốc tích thì thường được giấu đi. Chúng tôi, giống như những người bị gạt ra bên lề cùng căn bệnh. Nhưng đau đớn, thương tổn về thể xác khiến tinh thần cũng ngày càng kiệt quệ. Nhưng Hàn Mặc Tử thì khác, vì trong quãng thời gian ấy, có ai ngờ, những vần thơ hay nhất, đặc sắc nhất đã được ra đời”, ông Hải kể lại.
 
Lúc viết Sự trong sạch của tâm hồn rồi cất trong túi áo, hai bàn tay Hàn Mặc Tử đã bị co quắp, viết lách khó khăn. Thời gian sống ở đó, ông được người em họ là Phạm Hành cứ mỗi tuần một lần đạp xe từ Quy Nhơn vào làng phong để tiếp tế lương thực cho anh. Một điều đặc biệt nữa là mặc dù rất giỏi tiếng Pháp nhưng lúc ở làng phong, Hàn Mặc Tử giấu đi, mãi đến khi có bài văn cuối cùng thì mọi người mới vỡ lẽ.
 
Đám tang trong lặng lẽ
 
Nhiều người đã đặt câu hỏi, liệu Hàn Mặc Tử có thể cho ra đời tập Thơ điên nếu không có những ngày cuối đời ở Quy Hòa? Bởi cảnh sắc nơi đây như đã là một món quà quý đối với những người mắc bệnh phong. Ông Huỳnh Ngọc Hải nhớ lại: “Tôi mắc bệnh và đến đây từ năm 1974. Lúc đó, Quy Hòa không khác gì một thiên đường nơi hạ giới. Màu xanh gần như bao phủ hết cả làng. Rừng dừa và rừng dương bạt ngàn. Còn biển thì sạch tuyệt đối. Mọi thứ gọn gàng, sạch sẽ và đường sá đâu ra đó hơn bây giờ nhiều. Đặc biệt là kiến trúc những ngôi nhà ở đây được xây theo phong cách Gothic”. Ông Hải kể: “Hồi đó, năm 1974, một tờ nhật báo ở Sài Gòn đã về đây viết bài về làng phong, bài báo kể rất nhiều, trong đó tôi nhớ nhất câu “Quy Hòa trông giống như một kinh đô ánh sáng”. Thời điểm ấy là lễ Noel, những chiếc đèn bạch lạp giăng mắc khắp nơi, từ trong nhà ra ngõ, rồi những thân cây cũng treo đèn khiến đêm rực sáng lấp lánh. Tôi đã nghĩ, ở vùng đất thần tiên này, ai cũng có thể làm văn, làm thơ vì say với cảnh, với tình người nơi đây!”.
 
Hàn Mặc Tử trút hơi thở cuối cùng vào đêm 11.11.1940. Mang bệnh phong nhưng nhà thơ không chết vì phong mà chết vì bệnh kiết lỵ, lục phủ ngũ tạng cũng bị hư hại nhiều do uống thuốc bên ngoài. Ông Viết Hiền, một nhà nghiên cứu về Hàn Mặc Tử tại Bình Định cho biết: “Có nhiều thông tin không đúng về nhà thơ như trong vở cải lương Chuyện tình Hàn Mặc Tử có đoạn bà Mai Đình đến thăm ông tại nhà riêng phải che mắt, vì nhà thơ mặc cảm bệnh tật. Lúc này, Hàn Mặc Tử chưa có những di chứng của người bị phong nặng như hốc mắt biến dạng, phải tháo khớp tay, chân. Hay những thông tin như đưa cơm cho Hàn Mặc Tử qua cửa sổ cách ly… tôi cho đó là thêu dệt”. Đồ đạc mà ông để lại chỉ có một bộ bà ba trắng, một áo vest cũ, một đôi giày rách, một cái gối con, một cuốn sách của nhà văn Pháp và bài Pháp văn viết bằng bút chì, không một đồng tiền nào trong người. Đám tang của ông được tổ chức lặng lẽ chỉ với chừng 4 - 5 người và cha xứ.
 
Người sáng lập làng phong Quy Hòa là linh mục Paul Andre Maheu. Năm 1929, vị linh mục này cùng bác sĩ Le Moine tìm thấy một thung lũng thích hợp cách TP.Quy Nhơn khoảng 5 km về hướng nam để xây dựng bệnh viện cho những người bệnh phong.

Theo Tâm Ngọc - TN

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • BỬU Ý

    Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.

  • LÊ QUANG KẾT
                   

    Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).

  • VŨ THU TRANG

    Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.

  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ

    Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.

  • HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
                                      Đoản văn

    Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!

  • LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ

  • BÙI KIM CHI

    Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.

  • KIM THOA

    Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên        
          
                       (Hàn Mạc Tử)

  • NGUYỄN VĂN UÔNG

    Hôm nay có một người du khách
    Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên         
     

    (Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUY

    Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.

  • LÊ QUANG KẾT                
                      Tùy bút

    Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.

  • TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.

  • LÊ QUANG KẾT

    Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.

  • HUY PHƯƠNG

    Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
    Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên         
                          
                                              (Tố Hữu)

  • PHAN THUẬN AN

    Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.

  • MAI KIM NGỌC

    Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.

  • HOÀNG HUẾ

    …Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…

  • QUẾ HƯƠNG

    Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.

  • THU TRANG

    Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ

    Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.