Suy nghĩ về một vài truyện ngắn trên Tạp chí Sông Hương

11:09 03/06/2008
Gần đây, đọc một vài truyện ngắn trên tạp chí Sông Hương, tôi vô cùng cảm động. Trước số phận của các nhân vật, tôi muốn nói lên những suy nghĩ của mình và chỉ mong được coi đây là lời trò chuyện của người được "nhận và cho":

1 – Về truyện ngắn "Trăng nơi đáy giếng" của Trần Thùy Mai trên Sông Hương số 148 (6-2001), tôi nghĩ ít có cô gái nào đầy đủ, đặc trưng cho tính cách của người phụ nữ như cô Hạnh – nhân vật chính trong truyện. Còn anh Phương, chồng cô Hạnh vốn là con nhà dòng dõi, tính cách quý phái của anh thể hiện đến mức: "Anh không bao giờ đi qua dưới dây phơi cho dù quần áo đã cất hết". Một người đàn ông tinh tươm và kỹ tính như Phương mà cô Hạnh vẫn yêu thương chiều chuộng được thì cô Hạnh thật là người con gái rộng lượng, vị tha.
Số phận rủi ro, cô Hạnh không có con để được chăm sóc là một thiệt thòi. Nỗi đau thầm lặng khi chồng đến với người đàn bà khác không được giải tỏa, cô Hạnh còn bị nghi oan là có hành vi bao che cho những sai phạm của chồng, bị quy là phạm pháp, là phong kiến... Cô Hạnh nhận hết những thiếu sót về mình, hy sinh hết thảy chỉ để cho chồng được sung sướng. Và thánh thiện đến mức chăm lo cho cả người vợ bé của chồng, một con người ăn cháo đá bát. Lòng vị tha, rộng lượng của cô Hạnh bị lợi dụng. Khi sự thật được phơi bày, hình ảnh người chồng bấy lâu được tôn thờ nay đã mất linh thiêng thì cô Hạnh là người thất vọng và đau khổ nhất. Nỗi buồn da diết khi đứa con riêng của chồng mà cô nuôi nấng yêu thương chăm sóc từ ngày còn nhỏ cũng bị giành giật. Chỗ dựa tinh thần cuối cùng không còn nữa, cô Hạnh phải sống trong nỗi cô đơn khủng khiếp. Tác giả "Trăng nơi đáy giếng" đã dày công vun đắp cho nhân vật chính của mình mang đầy đủ tính cách của người phụ nữ sống thủy chung, tình nghĩa.
Nhân vật Phương được tác giả thể hiện là con người trắng đen lẫn lộn. Là đàn ông, Phương có đầy đủ những mặt ưu, mặt khuyết. Nhờ có chút tài và cái đức của người vợ mà anh ta được mọi người nể trọng. Xét cho cùng, anh ta chẳng qua cũng chỉ là con người ích kỷ, tầm thường không xứng đáng để cô Hạnh yêu thương, chăm chút.
Nhà văn Trần Thùy Mai quan sát và nắm bắt được nhiều chi tiết trong cuộc sống hàng ngày nên tác phẩm được tái tạo có sức lôi cuốn bạn đọc.
2 – Đọc truyện ngắn "Đường chim bay" của nhà văn Ngô Thị Ý Nhi trên tạp chí Sông Hương số 149 (7-2001) với cốt truyện làm tôi liên tưởng đến bài dân ca:
Ô rô tía, bạc hà cũng tía
Ngọn lang dâm, ngọn mía cũng dâm
Em thấy anh tốt mã em lầm
Giờ em nghĩ lại vàng cầm em cũng buông
Cốt truyện dung dị như chuyện muôn thuở của đời người, với giọng văn nhẹ nhàng truyền cảm, truyện ngắn Đường chim bay đã ghi được dấu ấn vào tâm hồn người đọc. Nhân vật người mẹ và cô gái ở trong truyện đáng yêu và đáng kính trọng. Họ đều mang bản chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt và đức tính trầm lặng dịu hiền, cao sang của người xứ Huế.
Tác giả "Đường chim bay" phải có tâm hồn cao cả mới tạo nên nhân vật Nhân, một con người có học, đẹp trai, thông minh được thể hiện bằng: "... dáng ngồi ngay ngắn trước trang sách mở rộng, bàn tay đỡ lấy vầng trán thông minh, cái dáng ngồi của những người quen viết ngay sổ thẳng...." Cũng con người ấy khi anh ta bộc lộ bản chất vị kỷ, thấp hèn sống không còn tình nghĩa thì hình ảnh anh ta chỉ còn là "Một bóng người vội vàng nhảy xuống, chiếc xách da đen nặng trĩu trên tay, vấp phải cái gì đó anh ta chúi mình suýt té rồi cứ thế đầu cúi thấp, hấp tấp lầm lũi như người chạy trốn". Chi tiết này khiến người đọc liên tưởng đến những kẻ tội đồ như con chim bị rớt trên đường bay mà dân tộc đang bay. Một chi tiết theo tôi là đắt giá.
Truyện ngắn "Đường chim bay" nổi lên ở tính thời sự: hiện tượng thiếu công ăn việc làm đang là gánh nặng của xã hội, tình yêu và lối sống thực dụng đang làm băng hoại đạo đức truyền thống. Là một câu chuyện buồn khi tác giả để bà mẹ tâm sự: "Tôi có cảm tưởng mình chẳng hơn gì bà mẹ quê mùa hai sương một nắng, ngày ngày nhìn con cắp sách đến trường không hiểu người ta dạy những gì, con mình học được những gì và bị ai bắt nạt hiếp đáp trong thế giới xa lạ kia...". Tôi nghĩ chỉ có các nhà quản lý xã hội, quản lý giáo dục mới giải đáp được những băn khoăn của bà mẹ ấy.
Câu chuyện không vui nhưng kết truyện lại là chan hòa "ánh nắng mặt trời xuân chiếu vào lấp lánh, lấp lánh giọt sương mai thuần khiết...". Thật là hạnh phúc cho tuổi trẻ hôm nay, họ như những cánh chim đang bay trên bầu trời ấy.

ĐỖ XUÂN NGÂN
(nguồn: TCSH số 153 - 11 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Vừa qua nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân có viết một loạt bài về ông Nguyễn Hiển Dĩnh - một quan lại triều nguyễn, nhà soạn tuồng nổi tiếng Quảng Nam. Qua thư tịch, anh chứng minh Nguyễn Hiển Dĩnh tuy có đóng góp cho nghệ thuật tuồng cổ nhưng những hành vi tiếp tay cho Pháp đàn áp các phong trào yêu nước ở Quảng Nam quá nặng nề nên không thể tôn xưng Nguyễn Hiển Dĩnh là danh nhân văn hoá của việt Nam như Viện Sân khấu và ngành văn hoá ở Quảng Nam Đà Nẵng đã làm. Qua các bài viết của Nguyễn Đắc Xuân có những vấn đề lâu nay ngành văn hoá lịch sử chưa chú ý đến. nhà báo Bùi Ngọc Quỳnh đã có cuộc đối thoại lý thú với anh về những vấn đề nầy.

  • ĐỖ NGỌC YÊNVào những năm 70 của thế kỷ, ở nhiều nước phương Tây tràn ngập không khí của cuộc khủng hoảng gia đình, làm cho nhiều người rất lo ngại. Một số kẻ cực đoan chủ trương xóa bỏ hình mẫu gia đình truyền thống. Nhưng cái khó đối với họ không phải là việc từ bỏ hình mẫu gia đình cũ - mặc dù trên thực tế việc làm đó không phải dễ - mà vấn đề đâu là hình mẫu gia đình mới.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH             Phóng sự điều tra

  • THỦY THANHLâu nay, "quả lắc" vì sự trong sáng tiếng Việt dường như đã trì vào điểm chết của dây dọi. Những mặc cảm, thành kiến hoặc dị ứng về sự "ga lăng ngôn ngữ" trước áp lực của thời đại tin học cũng chững lại như một thái độ thăm dò. Suy cho cùng thì ngôn ngữ cũng có đời sống riêng và nó bao gồm cả thể vía lẫn thể xác. Nó cũng "hữu sinh tất hữu diệt" trong luật tiến hóa và đào thải như nhiên. Ngôn ngữ nói chung là một phương pháp hệ thống hóa và tích lũy tri thức theo sự diễn tiến về mặt lịch đại và sự tiệm tiến về mặt đồng đại.

  • Các lý thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung tối quan trọng không thể chối cãi: tác phẩm văn học là một hiện tượng sử dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau.

  • Viết là một công việc bất hạnh. Một trong những yếu tố gây khốn khổ cho nhà văn là cốt truyện. Cốt truyện là “ông ngoáo ộp” dọa dẫm người cầm bút và cũng là nguyên nhân chung dẫn đến sự bế tắc của họ trong quá trình triển khai tác phẩm.

  • Trên thế giới, ít có loài hoa nào ra đời sớm, phổ biến với nhiều biểu trưng cao quý như hoa sen. Dáng hình đẹp, màu sắc trang nhã, hương thơm thùy mị, thanh khiết, không nhiễm bẩn... chừng ấy đức tính tốt đẹp đã đưa hoa sen thành biểu trưng cao quý của đạo Phật.

  • TRẦN ĐƯƠNGGoethe (1749-1832) hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào ông cũng thâu tóm những tri thức đồ sộ, cũng đạt được những thành tựu xuất sắc. Tên tuổi ông trở thành niềm tự hào của cả dân tộc, được Các Mác gọi là người Đức vĩ đại nhất”.

  • AN CHÍNHCó lẽ Hồng Nguyên là một trong những nhà thơ rất thành công về việc dùng "tiếng địa phương trong thơ của mình.

  • Flier Andrei Jakovlevich(Tiến sĩ triết học, nhà văn hóa học của Nga)

  • HOÀNG NGỌC HIẾN    (Đọc "Văn hóa chính trị - truyền thống và hiện đại" (1) của Nguyễn Hồng Phong)Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX06 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm(2). Lịch sử những quá trình hiện đại hóa ở Việt Nam từ cuối t.k.XIX đến nay là một chủ đề quan trọng của công trình.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHThực trạng của phê bình nghệ thuật hiện nay đang là một câu hỏi cần phải được trả lời.

  • THỦY THANHCuộc thi thơ dành cho người tàn tật ở Thừa Thiên Huế mặc dù "thời gian ứng thí" chưa đầy 2 tháng nhưng đã thu được kết quả đáng khích lệ. Với 33 tác phẩm của 7 tác giả nghiệp dư mang khuyết tật trên mình nhưng mỗi con người trong họ vẫn là "một thế giới một tâm hồn" lành lặn.

  • HOÀNG TẤT THẮNGMột trong những đặc điểm đặc thù của tiếng Việt là: các danh từ chỉ sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất... không phải luôn chỉ đứng một mình mà thường kết hợp với một từ đứng trước với chức năng phân loại, chỉ đơn vị, biểu thái... trong lời nói. Chẳng hạn, sự vật thuyền trong tiếng Việt không phải chỉ có từ "thuyền" mà còn có "cái thuyền", "chiếc thuyền", "con thuyền", "lá thuyền", "mảnh thuyền"... các từ "cái - chiếc - con - lá - mảnh..." thường gọi là từ chỉ loại (hay là loại từ).

  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học thời đại nào cũng là sự du di cái nhìn thấm sâu vào đời sống. Thơ văn nói tới cái thật xa, rồi lại trở về với cái thật gần. Muốn đi xa, hành trang thơ phải gọn nhẹ, nhẹ chữ nhưng nặng lòng. Thơ Thiền là vậy. Mỗi câu thơ như một mũi tên bay vào tưởng tượng. Giữa những dòng thơ Thiền là một cõi chân như, vượt ra ngoài định giới môi trường xã hội quen thuộc, vì thế thơ Thiền thênh thang hướng đạo nhằm mục đích cứu sinh, đưa con người trở về với chính nó.

  • LÊ ĐẠT                Đường bụi trang lịch cũ                 ếp ếp đàn thời gian                                           L.Đ

  • HOÀNG NGỌC HIẾN             (góp phần định nghĩa minh triết)Tôi bắt đầu tiểu luận này bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề minh triết của hai học giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914- 1997).

  • VÕ VĨNH KHUYẾNBa mươi năm, sau khi Bác qua đời (1969 - 1999) có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều chuyên luận và khá nhiều bài viết trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước về thơ, văn của Bác. Quy mô và mức độ có khác nhau. Tuy vậy, vẫn có chỗ chưa được khảo sát một cách đầy đủ, chưa được đầu tư nghiên cứu một cách thỏa đáng. Trong phạm vi, khả năng cá nhân và nội hàm vấn đề, chúng tôi mạnh dạn trình bày một số suy nghĩ về thơ Bác viết cho thiếu nhi.

  • NGÔ TỰ LẬP(Tiếp theo TCSH số 127/9-99)

  • NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.