Suy ngẫm về bộ tiểu thuyết lịch sử thời Trần của Hoàng Quốc Hải

10:46 30/07/2009
HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

Bộ tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quốc Hải - Ảnh: noiket.com.vn

Lại có một thực tế nữa. Phần lớn những nhà văn chuyên về tiểu thuyết lịch sử có tâm huyết - ngoại nhiều hơn nội - đã tạo nên những kiệt tác bất hủ, làm vẻ vang cho đất nước mình, được đương thời và hậu thế ngưỡng mộ, tôn vinh. Hiển nhiên, những người tái tạo và làm phong phú lịch sử bằng văn học ấy, phải có tầm khái quát lịch sử, và nhất định phải có phương pháp đặc dụng và hữu hiệu riêng của mình, mỗi người một vẻ. Trong lời Tựa của bộ tiểu thuyết lịch sử thời Trần của mình, Hoàng Quốc Hải đã liệt kê những trường phái tiêu biểu về bộ môn này ở các châu Âu, Á và Mỹ. (Xin đọc trong sách, miễn kể lại vì rất dài). Nội dung chính của các trường phái ấy là quan niệm và phương pháp sáng tác tiểu thuyết lịch sử. Qua kiểm nghiệm, có thành tựu, có thất bại, có cái được đồng tình, có cái bị phản bác. Để viết bộ tiểu thuyết lịch sử thời Trần đồ sộ, đương nhiên nhà văn Hoàng Quốc Hải cũng phải có quan niệm và phương pháp riêng của mình. Xét kỹ, tác giả đã tiếp thu có ý thức những cái “được” và tránh những cái “chưa được” của những người đi trước. Thêm vào đó, bằng bút pháp riêng của mình, tác giả còn sáng tạo nên những nét độc đáo (originalité), ghi đậm dấu ấn riêng của mình không giống bất cứ ai trong tác phẩm. Xin được phép gọi đó là “Dấu ấn Hoàng Quốc Hải”. Chưa định hình nhưng đã manh nha một trường phái Hoàng Quốc Hải. Thời gian và công luận sẽ đánh giá, xác định.

Từ những thành tựu của bộ môn này, mặc nhiên một câu hỏi có tính hệ quả được đặt ra: Vậy thế nào là một tiểu thuyết lịch sử? Lấy gì làm chuẩn mực để phân biệt đâu là tiểu thuyết lịch sử đích thực với tiểu thuyết lịch sử nói chung? Câu trả lời xác đáng nhất là ở trong nội dung của tác phẩm, ở ngay trong bộ tiểu thuyết lịch sử thời Trần của Hoàng Quốc Hải. Trước hết hãy tìm hiểu xem điều gì đã dẫn dắt, lôi cuốn, tiếp máu cho tác giả để anh cần mẫn thu gom, chiu chắt tài liệu, rồi vắt kiệt tâm lực trong gần hai chục năm đằng đẵng, để đạt đến hơn 2000 trang sách, dựng lại đầy sức thuyết phục cả thời đại hưng suy dài tới 175 năm của nhà Trần? Nếu không có lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tôn kính tổ tiên, khuyến thiện trừ ác, bênh chính diệt tà muốn những người thờ ơ với lịch sử đất nước hãy nghĩ lại thì dù tài giỏi đến xuất chúng, anh cũng không làm nổi. Mạch văn của anh sát phạt nhưng phân minh, công bằng, tỉ mỉ, thấu đáo mà chững chạc, nghiêm cẩn.

Lịch sử thường bị bụi bặm thời gian và của chính con người phủ đắp lên. Ở dưới ấy có “những điều kỳ diệu và cả những khổ đau” (lời của H.Q.H trong bài tựa). Tác giả đã tự tay quét sạch lớp bụi che lấp ấy để thấy được sự thật và không thật của lịch sử. Đó chính là phương pháp “suy trần xuất tân=phủi bụi cũ đi tìm cái mới” đứng đắn, đúng long mạch, một đóng góp quý giá cho phong trào “phục hồi vốn cổ dân tộc” do các nhà văn viết tiểu thuyết và kịch lịch sử lỗi lạc của Trung Quốc cô đúc được. Không những Hoàng Quốc Hải đã phục hiện lại diện mạo đích thực của nhà Trần, mà còn lấp được những lỗ hổng, những kiến giải thiếu khách quan đối với những nhân vật chủ chốt của lịch sử như Trần Thủ Độ, Hồ Quý Ly; còn biểu dương được công tích, tầm cao trí tuệ của những nhân tài mà các nhà viết sử phong kiến chỉ lược qua như Chu Văn An, Trần Nhân Tôn; lại còn phân tích những nguyên nhân và hậu quả tai hại của những kẻ bán nước và làm sụp đổ cả vương triều như Trần Kiện, Trần Ích Tắc, Trần Dụ Tôn...

Với bút pháp điềm đạm, tình lý rạch ròi như mũi khoan khoét sâu vào tính cách nhân vật, vào nội hàm sự kiện có dự báo; anh đem đến cho người đọc cả chân thực lẫn chân lý lịch sử. Có một số nhân vật và sự kiện hư cấu hợp “logic” theo thủ pháp văn học: “Chòm sao tôn nguyệt” (sao mờ đi cho ánh trăng tỏ sáng hơn) mà Tào Tuyết Cần đã sử dụng trong Hồng Lâu Mộng, với mục đích làm nổi bật nhân vật chính, sự kiện chính.

Tại sao Hoàng Quốc Hải làm được như thế? Xin mượn tạm một số tiêu chí thẩm định giá trị của một tác phẩm (cả lịch sử lẫn hiện đại) mà các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử của Châu Âu trong thế kỷ XX đã gom được qua nhiều cuộc trao đổi, tranh luận, dùng nó để soi vào bộ sách hoành tráng của anh. Các tiêu chí đó gồm: - Trong sáng dễ hiểu (Clair), 2- Chính xác (Précis), 3 - Gọn gàng (Concis). Bằng kinh nghiệm riêng, tôi xin thêm vào điểm thứ 4 nữa: Chọn lọc (Choisi).

Hoàng Quốc Hải đã sử dụng bút pháp truyền thống, nhưng đã lược bỏ nhiều từ ngữ, thành ngữ Hán cổ lỗ, khó hiểu đối với lớp độc giả trẻ hôm nay. Anh lựa những cụm từ phổ cập, dễ hiểu, đôi khi còn giải nghĩa một cách kín đáo, nhẹ nhàng. Cấu trúc của câu văn sáng sủa, lôi cuốn như vó ngựa đi nước kiệu, dễ thấm sâu vào người đọc. Đó là tiêu chí đầu tiên.

Để xây dựng tính cách nhân vật thật sâu, giải thích sự việc thật rõ, anh dùng rất nhiều chi tiết tâm lý, lịch sử đáng tin cậy, những phong tục, tập quán, giọng điệu ngôn ngữ phù hợp với thời đại lịch sử, không sa vào chỗ cổ lỗ, cũng không hiện đại hoá một cách kệch cỡm. Đó là tiêu chí chính xác. Sự chính xác tối đa không sai sót mảy may.

Tư liệu sử sách, điền dã, điều tra, ghi chép, thẩm định của anh dư dật, dùng không hết. Nhưng anh không đưa xô bồ vào trong sách, mà có chọn lọc kỹ càng nhiều mà không thừa, rất cần thiết, rất đáng giá. Nhiều mà không tạp, dàn trải mà vẫn gọn gàng, chắt lọc. Đó là điểm 3 và 4 của tiêu chí. (Có thể trích dẫn trong sách để minh chứng, nhưng e quá dài. Xin các bạn có con mắt xanh với bộ tiểu thuyết lịch sử của anh tìm đọc trực tiếp).

Qua suy ngẫm và mổ xẻ trên, tự thân tác phẩm là câu trả lời xác đáng. Bộ tiểu thuyết lịch sử thời Trần chính là tiểu thuyết lịch sử theo đúng ngữ nghĩa và do tính đặc thù của nó, người đọc thấy được diện mạo thật sự của lịch sử, thể hội được dòng chảy miên man của nó, tưởng như nó đương diễn ra tuần tự trên từng trang sách, cảm được cả hơi ấm lạnh của lịch sử đương thấm đẫm vào mình.

Tôi nhắm mắt lại, những trang sách của anh chắp cánh cho tôi. Chợt thấy thân xách nhẹ tênh, hồn linh bay ngược thời gian, về với giai đoạn lịch sử đầy biến động nhưng cũng cực kỳ hoành tráng ấy. Kia là “Người lính già đầu bạc, kể mãi chuyện Nguyên Phong”. Người lính ấy gửi lời cảm ơn nhà văn Hoàng Quốc Hải đã không quên anh ta, tiếp sức sống cho anh ta bằng tác phẩm thành công cả về in ấn lẫn ý nghĩa sâu sắc của mình.

H.C.K
(182/04-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN ĐÌNH SỬ

    Từ khi có bài báo ngắn Dân là gốc hay lấy dân làm gốc của Văn Như Cương (Văn nghệ số 48-1988), một số bạn đã viết bài bàn lại, nói chung cho rằng nói "Lấy dân làm gốc" vẫn không mất ý nghĩa tốt đẹp của nó. Tôi cũng tán thành với các ý kiến đó, mặc dầu tôi vẫn cho rằng dịch "dân là gốc" như anh Cương bàn cũng đúng.

  • NGUYỄN VĂN HÙNG    

    Chuột là loài vật luôn hiện hữu trong cuộc sống con người, bao gồm cả đời sống vật chất lẫn đời sống văn hóa tinh thần.

  • YẾN THANH  

    Đối với mỗi người Việt Nam, chuột là một “người hàng xóm” tự nhiên quen thuộc. Thật ra, trong lịch sử của loài người, có lẽ không loài động vật nào gắn bó tự nhiên với chúng ta hơn loài chuột.

  • NGỌC TRAI

    Văn học ta trong những năm gần đây đang có dấu hiệu chuyển hướng và đổi mới một cách đa dạng, phong phú.

  • DƯƠNG BÍCH HÀ  

    Văn hóa dân gian, trong đó có âm nhạc, là một bộ phận nghệ thuật quan trọng trong nền văn hóa đa dân tộc của Việt Nam. Nó phản ánh sâu sắc những tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của con người. Nó gắn liền với cuộc sống sinh hoạt của nhân dân và phục vụ nhân dân. Song song với cuộc sống của con người, nó đã tồn tại qua mấy nghìn năm lịch sử đến nay.

  • VÕ CÔNG LIÊM  

    Bất cứ là văn, thơ hay biên khảo, ký sự… nói chung là viết.

  • HỒ THẾ HÀ  

    Lục bát là thể thơ đặc trưng thể hiện bản sắc và tâm hồn dân tộc Việt. Nó trở thành tình cảm, tâm thức sáng tạo và tiếp nhận của nhân dân từ ngàn đời nay, nó trở thành hữu thức và “vô thức tập thể” trong sinh hoạt tinh thần và sinh hoạt vật chất của toàn dân.

  • TRẦN HỮU SƠN     

    Đạo Mẫu là hình thức tôn giáo quan trọng ở Việt Nam. Hiện nay, đạo Mẫu đang có bước “chuyển mình” và phát triển mạnh mẽ cả về thiết chế và đối tượng tham gia. Vì vậy, đạo Mẫu đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học.

  • ĐỖ LAI THÚY

    Cuốn sách của giáo sư Trần Đức Thảo đề cập đến nhiều vấn đề, rộng và sâu. Bài báo này chỉ nói đến một luận điểm mấu chốt của ông, bản chất con người và những ngẫm nghĩ gợi ra từ đó, trong sự đối chiếu với văn học gần đây.

  • (Một vài trao đổi với nhà thơ Dương Tường)

    NGÔ THẾ OANH

           (thực hiện)

  • MAI LIÊN GIANG

    (Qua công trình Phản ánh nghệ thuật trong mỹ học của Lukács György của Trương Đăng Dung)

  • LƯỜNG TÚ TUẤN
                (Tặng Yến Linh và Thái Hạo)

    “Hình thức nghệ thuật nếu được hiểu đúng thì nó không tạo hình thức cho một nội dung đã có sẵn và được tìm thấy, mà là cái hình thức cho phép lần đầu tiên tìm thấy và nhận ra nội dung” (M. Bakhtin).

  • ĐỖ QUYÊN

    (Nhân đọc “Cái vú thừa” - tập truyện của McAmmond Nguyen Thi Tu, Nxb. Hội Nhà văn 2018) 

  • PHẠM QUYÊN CHI  

    Tâm lí học cổ điển đã xây dựng nên sơ đồ quy nạp của quá trình hình thành các đơn vị cơ bản của tư duy - và khái niệm duy lí gắn liền với từ.

  • YẾN THANH

    “Hoa dại như là niềm ân nghĩa. Nhìn hoa nghiệm ra sự hiện hữu của những gì tưởng đã tan loãng hư vô”
                                   [Nhụy Nguyên]

  • JOSEPH HILLIS MILLER    

    Không phải ngẫu nhiên khi cho rằng quan niệm về cái kết ở trong truyện rất khó để xác định rõ ràng, cho dù là “về mặt lý thuyết”, hay với một cuốn tiểu thuyết nhất định, hoặc với các tiểu thuyết ở một thời kỳ nhất định. Quan niệm về cái kết ở trong truyện vốn dĩ là “không thể giải quyết được.” (undecidable).

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG    

    Tôi đọc trường khúc Mẹ Về Biển Đông của Du Tử Lê lần đầu giữa một mùa hè khô hạn, mặt đất nắng cháy nứt nẻ thoảng mùi hoa hồng dại, thứ cây mọc nhiều ở Alberta.

  • HỒ TIỂU NGỌC    

    Trong bầu không khí dân chủ tối đa và nhận thức tối đa của con người thời hậu chiến, nền thơ Việt Nam, trong đó có thơ nữ lại nhanh chóng hòa nhập và tạo ra những góc nhìn đa dạng về cuộc sống.

  • MAI AN NGUYỄN ANH TUẤN     

    Bài thơ chữ Hán Điệp tử thư trung (Con bướm chết trong sách) được xếp ở sát cuối phần Làm quan ở Bắc hà (1802 - 1804), trong Thanh Hiên thi tập(1).