Sách chuyên khảo “Sự ra đời của đế chế Nguyễn” của A.Riabinin tiến sĩ sử học Xô Viết nghiên cứu lịch sử xã hội - chính trị của Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX.
Riabinin lúc đến nghiên cứu tại Huế (1984) (từ trái sang phải: cố họa sĩ Bửu Chỉ, cố nhà thơ Phan Văn Dật, Riabinin và nhà văn Nguyễn Đắc Xuân)
Chương mở đầu phân tích những cuộc đấu tranh của phong kiến ở Nam bộ (Gia Định) chống lại nhà nước Tây Sơn, một Nhà nước hình thành nhờ tư tưởng phong kiến hóa từ một nhóm người lãnh đạo phong trào nông dân. Giai đoạn cuối cùng, khi những căn cứ khởi nghĩa ở phủ Quy Nhơn tách biệt với chính quyền thối nát ở Huế và trở thành trung tâm kháng chiến chống lại bọn hào phú ở Gia Định, khi từ phong trào xuất hiện những thủ lĩnh đầy tài năng đứng đầu quần chúng có vũ trang, lúc này người ta thấy sự hồi sinh những tính cách nông dân trong phong trào cùng những đối đầu giữa các phe phái đạt được một phương hướng giai cấp rõ nét.
Cần hiểu ràng những người Tây Sơn không phải thất bại xét về mặt quân sự, một khi đứng trước những đội quân của hào phú (thực sự Tây Sơn ít giành được thắng lợi về mặt này) họ đã thất bại trước một mẫu hình kinh tế tiến bộ hơn, trên cơ sở này tồn tại một nền kinh tế phong kiến và tư nhân mang nặng tính thương mại trên những hình thức của một nền sản xuất nông nghiệp.
Trong quá trình chống lại lực lượng Tây Sơn đã thành hình hai lực lượng kìm chống nhau. Những người ý thức được những nhu cầu của những tầng lớp xã hội tiên phong được gọi, theo qui ước, những người theo phái “hiện thực”, những đại diện cho xu hướng quay lại những khuôn mẫu truyền thống xưa cũ về cấu trúc xã hội kinh tế, được gọi những người theo phái “truyền thống". Tranh chấp giữa hai phe phái này trước vấn đề ai sẽ ảnh hưởng đến nền chính trị trong nước đã là biểu hiện cho sự đối nghịch giữa hai bộ phận trong giai cấp phong kiến: hào phú và viên chức phong kiến.
Lực lượng có vũ trang của hào phú ở Nam bộ được nhiều cư dân thành thị, chủ yếu là tư thương, giúp đỡ, giành được chính quyền năm 1802. Họ đã xây dựng một chính quyền mới trên những nguyên tắc thực hiện một chính sách về xã hội đặc thù cho từng thành phần trong đế chế, cùng việc thống nhất vào thời kỳ sau những khuôn mẫu phát triển ở Nam bộ - Đàng Trong trong thế kỷ XVIII.
Bốn chương tiếp phân tích theo từng chương sự phát triển của xã hội, kinh tế và nghiên cứu chi tiết sự phát triển xã hội - chính trị của xã hội Việt Nam theo từng vùng trong cả nước Bắc Bộ - Nghệ An - Thanh Hóa, những tỉnh cũ của xứ Đàng Trong, Nam Bộ - (Gia Định) theo từng giai đoạn chuyển tiếp: 1802 - 1806, 1806 - 1812, 1812 -1817, 1817-1819.
Chương 2 nghiên cứu lịch sử chính trị xã hội Việt Nam giai đoạn 1802 – 1806. Thời kỳ này, phái “truyền thống” đang nắm chính quyền ở Bắc Bộ cố gắng xây dựng một chính sách bảo thủ gồm những nét chủ yếu: tái lập sở hữu tập thể về đất đai - cơ sở kinh tế của viên chức phong kiến, hạn chế những định vị xã hội - chính trị với hào phú, giảm bớt vai trò chức năng của họ trong việc tham gia quyền bính. Do thực hiện nhất quán chính sách này, tranh chấp trong xã hội trở nên trầm trọng thêm và xuất hiện những vụ nổi loạn có vũ trang chống lại Nhà nước “truyền thống”, Ở Nam Bộ thuộc chính quyền “hiện thực”, tầng lớp địa chủ được phát huy tích cực vai trò của mình, đồng thời với tư thương, thợ thủ công, chủ hãng, những người này được chính quyền miễn thuế từng phần hay toàn trong nhiều năm. Việc khuyến khích buôn bán gạo đã biến tỉnh Gia Định thành một vựa lúa của cả nước và tạo điều kiện cho nhiều công trình xây dựng lớn ở Kinh đô, điều này gắn chặt với việc củng cố những cơ sở doanh nghiệp của Nhà nước phong kiến ở những tỉnh thuộc Đàng Trong, một phần ở Nghệ An Thanh Hóa đang thuộc chính quyền ở Phú Xuân. Nét đặc biệt cũng trong thời kỳ này và mang tính ngoại lệ là chính quyền trung ương thừa nhận vai trò của tư nhân đã được chính thức hóa, được bầu bán và công nhận trong địa hành chính, cùng với những “thư ký” làm những công việc hành chính, bằng cách này tránh được tuyển chọn người theo thi cử và hình thành một tầng lớp người “phân tán”.
Chương 3 nghiên cứu sự phát triển xã hội và chính trị của Việt Nam thời kỳ 1806-1812. Chính quyền “truyền thống” gây nên những vụ nổi loạn của quần chúng đứng đầu là những đại diện “quý tộc”, Triều Nguyễn bị đe dọa ở Bắc thành. Khủng hoảng quân sự đi liền với khủng hoảng chính trị. Chỉ nhờ những lực lượng quân sự quá khích mà chính quyền “truyền thống” ngăn cản một trong những dòng họ xưa cũ nhất tham gia quyền bính. Thất bại tất yếu của những người bảo thủ buộc phải tước bỏ quyền lực của những người “truyền thống” và chỉ định những người “hiện thực” vào những chức vụ hành chính cấp cao, họ - phái “hiện thực” - đã hạn chế dần hoạt động những cơ sở doanh nghiệp Nhà nước phong kiến và nhờ vậy tình hình được ổn định dần ở Bắc Bộ. Ở Gia Định, sau khi sưu thuế được lập lại, việc đánh thuế vào đất tư chủ yếu thuộc về địa chủ trở nên dễ dàng hơn, 10 lần thấp hơn mức đánh trung bình của đế chế. Tư thương được quyền thoát khỏi sự kiểm soát của Nhà nước. Những đặc quyền cũng được dành cho những người cùng chiến đấu với quan Nhiếp chính thành Gia Định (trong thời kỳ chống quân Tây Sơn những năm 80 của thế kỷ XVIII), và được gọi là người của Băng Kốc (tức những người cùng đi với quan Nhiếp chính đến Băng Kốc). Cũng cần ghi nhận rằng những người dân Gia Định “từ chối” những chức vụ trong bộ khung chính quyền ở Nam bộ, những vị trí hành chính cao, đặc biệt ở Kinh thành, điều này chứng tỏ họ quan tâm hơn đến công việc buôn bán thương mãi và không chuẩn bị gì cho những kỳ thi tuyển. Do những tranh chấp ở Campuchia, các cơ sở doanh nghiệp của Nhà nước phong kiến có phát triển đôi chút. Tại những tỉnh cũ ở xứ Đàng Trong, hình thức này vốn có từ trước bị hạn chế, nhưng hình thức lao dịch theo định kỳ của nhiều tầng lớp trong xã hội vẫn còn. Binh lính bị sung vào việc xây dựng ở Kinh thành. Nhiều vụ nổi dậy nổ ra ở Nghệ An, Thanh Hóa ở những tỉnh tiếp giáp với Bắc thành, nhưng tất cả đều bị dập tắt.
Chương 4 phân tích lịch sử xã hội chính trị thời kỳ 1812-1817. Ở Bắc bộ, phái “hiện thực” sau khi thay đổi những chính sách có từ thời chính quyền trước, và du nhập một chính sách kinh tế bằng biện pháp quân sự, đã thành công trong việc trấn áp những vụ nổi loạn và hạn chế ảnh hưởng chống chính quyền, làm ổn định tình hình. Cùng thời gian này tình trạng bất ổn bắt đầu xuất hiện ở Nghệ An, Thanh Hóa. Ở Gia Định, do tranh chấp vẫn tiếp diễn ở Campuchia, chính quyền gia tăng mức thuế và lao dịch bằng những biện pháp quân sự, điều này thực hiện được nhờ vào số lượng đông đảo những người chịu sưu thuế và lao động cho Nhà nước. Ở những tỉnh cũ xứ Đàng Trong, mức độ khai thác doanh nghiệp của Nhà nước không cao. Tranh chấp giữa hai phái “hiện thực” và “truyền thống” kết thúc, những thủ lĩnh của “truyền thống” bị tiêu diệt. Thắng lợi của những người “hiện thực” trên bình diện cả nước khả dĩ cho phép thực hiện một chính sách xã hội cân bằng dựa trên những chuẩn mực của sự phát triển từ “phương nam”, cùng lúc này, kỳ thi tuyển liên Việt đã chứng tỏ vai trò lãnh đạo của người miền Bắc trong phạm vi đào tạo cán bộ quản lý. Một thành viên của lực lượng bảo thủ cùng lúc được quyền kế vị hoàng đế. Từ đó bắt đầu hình thành một lớp người thừa kế “những người của Băng Kốc” mà đa số là con cháu những hào phú ở Gia Định. Những người này không dự các kỳ thi, mà tham gia vào cơ cấu hành chính nhằm mục đích làm suy yếu vai trò phái “truyền thống” và củng cố phương hướng cho phái “hiện thực” trong tương lai.
Chương 5 phân tích lịch sử xã hội chính trị Việt Nam giai đoạn 1817-1819. Thời gian này đường lối chính trị xã hội vốn đã cân bằng được trong toàn đế chế, một đường lối “thân Nam" bước đầu được áp dụng trong phạm vi rộng. Ở Bắc thành, chính sách này đã ổn định được tình hình và chấm dứt các vụ nổi loạn. Vùng Nghệ An, Thanh Hóa, chính sách phát triển cơ sở doanh nghiệp của Nhà nước phong kiến được chính quyền địa phương áp dụng gây nên những vụ nổi loạn có vũ trang, nhưng một trong những người “hiện thực” nhanh chóng dập tắt. Một loạt những biện pháp kinh tế và xã hội hữu hiệu tiếp theo sau những sự kiện này đã góp phần bình thường hóa tình hình. Ở Gia Định, việc tuyên truyền những sách lược của đế chế ở Nam bộ đã phát triển tốt đẹp những cơ sở doanh nghiệp của Nhà nước phong kiến, nhờ vào chính sách tăng số lượng người chịu sưu thuế, phần lớn những người di dân từ miền Bắc vào. Dù vậy địa chủ vẫn thừa hưởng những nguồn lợi từ thuế khóa mà mãi đến năm 1836 hình thức này mới bị bỏ. Lớp “người của Băng Kốc” đã trở thành một lực lượng chính trị thực sự, ảnh hưởng đến việc hình thành và vận dụng chính sách trong nước, họ đã lớn mạnh đáng kể. Ở những tỉnh cũ của Đàng Trong, đường lối chính trị xã hội của Nhà nước không mang lại những thay đổi lớn vì chúng chỉ là những chuẩn mực thực hiện máy móc, được sử dụng như một khuôn mẫu của đế chế được áp dụng trong cả nước. Dù vậy, thắng lợi của phái “hiện thực” vẫn không đầy đủ và vững chắc. Kỳ thi tuyển năm 1819 chứng tỏ vai trò lãnh đạo của những người Bắc trên lĩnh vực đào tạo cơ cấu viên chức. Ở miền Bắc, cơ sở xã hội - kinh tế của “chủ nghĩa truyền thống” tức sở hữu tập thể đất đai vẫn tồn tại. Ở Kinh đô, quanh nhà vua vẫn còn đội ngũ “truyền thống” với đường lối ôn hòa và thụ động và không dám xung đột với chính quyền “hiện thực”, họ chỉ đợi quyền lực sẽ được chuyển qua người bảo hộ của họ, từ đó thực hiện những chính sách của họ. Thay đổi những nhà quân chủ đã bổ sung cho đường lối lãnh đạo phát xuất từ Phú Xuân (Huế). Để tuyên truyền cho đường lối này trên phạm vi cả nước, những người “truyền thống” phải liên tục đấu tranh ở Bắc bộ, nhất là ở Nam bộ. Ngay đến những năm 30, những người “hiện thực” vẫn chưa bị tiêu diệt toàn bộ. Những khủng hoảng xã hội và kinh tế, con đẻ của bộ máy hành chính “truyền thống” trong những năm 20-30 đã phần nào làm tái sinh “chủ nghĩa hiện thực” vào cuối những năm 40 và đầu những năm 50 của thế kỷ XIX, nhưng vẫn không được phát triển do cuộc xâm lăng của người Pháp. Hoạt động từ trước của những người “truyền thống” đã làm suy yếu nhiều cuộc kháng chiến chống người Pháp.
ANH TÚ
(dịch từ bản tóm tắt tiếng Pháp)
(TCSH42/04&05-1990)
-----------------
(*) Sách của A. L. Riabinin, Viện Hàn Lâm khoa học Liên Xô, Mạc Tư Khoa 1988.
THÁI KIM LAN Tưởng niệm Cố Hoà Thượng Thích Thiện Châu Vừa qua tôi lục giấy tờ cũ, tình cờ thấy một trang giấy có thủ bút của Thầy Thích Thiện Châu (cố Hoà Thượng Thích Thiện Châu), một bài thơ. Cảm động quá. Bài thơ này Thầy viết sau khi khoá Thiền mùa hè năm 1990 chấm dứt và là lần cuối cùng Thầy sang giảng khoá Thiền tại Muenchen.
THI THOẠI Nhân 90 năm ngày mất Phan Kế Bính (1921– 2011) Phan Kế Bính hiệu là Bưu Văn, bút danh Liên Hồ Tử, người làng Thụy Khuê (làng Bưởi), huyện Hoàng Long, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội, thọ 46 tuổi (1875 - 1921).
MIÊN DI Không tìm thấy, và cũng đừng nên tìm ở tập thơ này một điều gì đã từng được nhiều người đồng vọng trước đây. Nó là những mảnh tiểu tự sự, những cái nhìn cô lẻ, biệt dị từ đáy thân phận và đôi khi tàn nhẫn.
HOÀNG DIỆP LẠC (Đọc tập “Thơ tự chọn” của Nguyên Quân, Nhà xuất bản Văn học, 8-2011)
ĐOÀN ÁNH DƯƠNG“Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đương có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học”…
NGUYỄN TRỌNG ĐỨC (Cảm nhận về tập thơ "Những kỷ niệm tưởng tượng")SHO - Lâu nay, người ta biết đến Trương Đăng Dung với tư cách là một nhà nghiên cứu lí luận văn học. Nhưng gần đây, sự xuất hiện của tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng làm xôn xao văn đàn Việt Nam đã khiến đông đảo bạn đọc không khỏi ngạc nhiên khi nhận ra rằng: bên cạnh một Trương Đăng Dung lí luận còn có một Trương Đăng Dung thơ.
ĐÀO ĐỨC TUẤN Lang thang giữa hè Huế nồng nã. Bỗng nhận tin của Minh Tự: thêm một cuốn sách của Nguyễn Xuân Hoàng vừa được bạn bè góp in. Đầy đặn 360 trang sách với chân dung “người buồn trước tuổi” đằm đặm trên bìa đen trắng.
Vào lúc 14 giờ 25 phút ngày 13 tháng 7 năm 2011 (nhằm ngày 13 tháng 6 năm Tân Mão), nhà thơ Văn Hữu Tứ, hội viên Hội Nhà văn TT. Huế đã qua đời sau một thời gian lâm trọng bệnh. Từ đây, trong mái nhà anh gần hồ Tịnh Tâm, trên các con đường của Thành phố Huế cũng như những nơi anh thường lui tới, tác giả của các tập thơ “Bên dòng thời gian”, “Tôi yêu cuộc đời đến chết” vĩnh viễn vắng mặt.
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc tập thơ “Năm mặt đặt tên”, Nxb Thuận Hóa, tháng 5-2011)
KHÁNH PHƯƠNG Nguyễn Đặng Mừng đến với nghề viết một cách tự nhiên, mà cũng thầm lặng như cách người ta theo đuổi một lý tưởng. Ông vốn là học trò lớp ban C (ban văn chương) những khóa gần cuối cùng của trường Trung học Nguyễn Hoàng, trường công lập duy nhất và cũng danh tiếng nhất tỉnh Quảng Trị trước 1975.
…Thuộc dòng dõi Do Thái Đông Âu, Frederick Feirstein sinh ngày 2 tháng Giêng năm 1940 tại New York City, thân phụ và thân mẫu ông có tên là Arnold và Nettie Feirstein…
L.T.S: Nhà thơ Xuân Hoàng sinh năm 1925 tại Đồng Hới, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Nguyên là quyền Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, thuở nhỏ ông học ở Huế rồi dạy học ở Đồng Hới một thời gian trước khi thoát ly tham gia cách mạng.
Anh không thấy thời gian trôi thời gian ở trong máu, không lời ẩn mình trong khóe mắt làn môi trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết lên mặt đất thành lời về kiếp người ngắn ngủi.(T.Đ.D)
HOÀNG THỤY ANH Phan Ngọc đã từng nói: Thơ vốn dĩ có cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải xúc cảm và phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức ngôn ngữ này.
TRẦN THIỆN KHANH (Nhân đọc Phim đôi - tình tự chậm, Nxb. Thanh niên 2010)
LGT: Tuệ Nguyên, một nhà thơ trẻ dám dấn thân để lục tìm chất men sáng tạo ở những vùng đất mới với khát vọng cứu rỗi sự nhàm chán trong thi ca. Trong chuyến xuyên Việt, anh đã ghé thăm tạp chí Sông Hương. Phóng viên Lê Minh Phong đã có cuộc trò chuyện với nhà thơ trẻ này.
KHÁNH PHƯƠNG Lê Vĩnh Tài tự chẩn căn bệnh của thơ tình Việt Nam là “sến”, nghĩa là đa sầu đa cảm và khuôn sáo, bị bó buộc trong những lối biểu hiện nhất định. Rất nhanh chóng, anh đưa được lối cảm thức đương đại vào thơ tình, cái ngẫu nhiên, vu vơ, ít dằn vặt và không lộ ra chủ ý, dòng cảm xúc ẩn kín sau những sự vật tình cờ và cả những suy lý.
HỒ THIÊN LONGBạn đọc TCSH thường thấy xuất hiện trên tạp chí, và một số báo văn nghệ khác một số tên tuổi như về văn xuôi có: Lê Công Doanh, Phùng Tấn Đông, Châu Toàn Hiền, Nguyễn Minh Vũ, Trần Thị Huyền Trang, Phạm Phú Phong, Trần Thùy Mai…
FAN ANH 1. Sự đồng hành của “ba thế hệ viết trẻ”