Tùng Thiện Vương - Ảnh: lieuquanhue.com.vn
Cho đến nay, với 14 bộ sách lớn của đời ông bao gồm các lĩnh vực triết học, lịch sử, âm nhạc, văn chương... chứng minh ông xứng đáng là một nhà lao động trứ thuật hăng say. Và sự nghiệp của ông có thể nói là sự nghiệp của một nhà bách khoa, sự nghiệp của nhà văn hóa Việt Nam thế kỷ 19. Trong sự hạn chế nhiều mặt của người nghiên cứu hiện nay, chưa ai có thể trong một thời gian qui định đã có thể trình bày đầy đủ, tường tận về mọi mặt đóng góp cho lịch sử văn hóa dân tộc của Miên Thẩm. Chỉ nói riêng sự nghiệp văn chương và cũng chỉ giới hạn trong một tác phẩm đồ sộ của ông là Thương Sơn thi tập, Miên Thẩm cũng đã ở vào hàng các nhà thơ chữ Hán tiêu biểu trong hoàng tộc Nguyễn vào thế kỷ XIX. Từ bài thơ Tuyệt bút do nhà thơ lấy tay viết lên không vào phút “bỏ giày” mà về với Đạo rồi nhìn ngược lên những ngày tháng ấu thơ non dại tập tểnh làm thơ trước sự chỉ bảo của các vị thầy khả kính, trước sự chăm sóc của người mẹ hiền từ ái và phụ hoàng nghiêm nghị... ta mới thấy Miên Thẩm là người đã gắn bó với thơ như thế nào. Một đời yêu trọng cái nghề “cuốc xáo chữ nghĩa”, “cày mây câu trăng” đủ cho Miên Thẩm mãi mãi xứng đáng với nàng thơ Phương Đông đầy vẻ thanh nhã, phong vận, ảo huyền và cả sự nghiêm nghị, lạnh lùng, đầy câu thúc nữa! (Chả thế mà Miên Thẩm từng có câu thơ “Tiếu sát vương tôn khẩn thạch điền” (Cười ngất vương tôn cày ruộng đá). Sức lao động hăng say ấy như một niềm an ủi sau cùng của một con người đầy tài năng, đức hạnh mà suốt đời chỉ có thể nghĩ đến sự vô nghĩa, vô vị của cuộc đời mình vì chẳng ai cho mình làm, chẳng ai cho mình cống hiến! Miên Thẩm không muốn làm một hoàng tử, một vương tôn theo kiểu xênh xang áo mão rong chơi cho hết một đời vinh hoa phú quí. Lắm khi tự ngắm mình trong những đêm say, cô độc giữa bốn bề vận nước ngả nghiêng, lòng người điêu trá, mà hừng hực trong tâm trí một nỗi thương lớn lao, đau xót cho đời, cho người và cả cho mình! Phi hồng ảnh đoạn chung vô tích, Bất cập Côn Minh hữu kiếp hôi ( Hồng bay đứt bóng không còn dấu, ý nghĩa nào bằng tro Côn Minh) Miên Thẩm đã cười lại vẻ cười của Đông Phương Sóc để chiêm nghiệm sự vô vị của kiếp người vô vị, không giá trị như những lớp tro ở đáy hồ Côn Minh vì chúng còn ý nghĩa ghi dấu đời người. Trong sự trở về tận cùng của bản thể, bản tính, bản tâm, Miên Thẩm đã làm thơ và Thương Sơn thi tập là tập thơ một đời của một người đau nỗi đau không khác Nguyễn Du. Khi Tố Như buồn nỗi Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như, thì bậc thi nhân Miên Thẩm cũng bật ra tiếng thở dài Thiên thu chi hạ, thùy tri ngã ưu? ( Ngàn thu về sau, Ai biết ta sầu?). Tiếng vọng của hai thế kỷ đau thương mà hào hùng ấy của lịch sử dân tộc ( thế kỷ 18-19) đã in dấu trong thơ Miên Thẩm làm nên các chủ đề bất diệt của tập thơ. Lòng yêu thiên nhiên quê hương đất nước, nỗi ngậm ngùi vì thân thế không đâu vào đâu, vẻ trầm tư tỉnh thức vì lịch sử và cổ nhân, nỗi hoài vọng vì đất nước không thể canh tân mà đang bị giày xéo vì lũ quỉ trắng, tiếng khóc không thôi vì nỗi đau đớn tận cùng của phụ nữ, những cuộc làm ăn sinh sống giãy giụa của từng kiếp người dân nghèo lao động chịu nhiều áp bức bất công... Tất cả ánh lên một lòng thương người, thương đời, thương nước, thương thân hiếm có. Nó như một vẻ sáng lạ chiếu rọi nhiều lần trong thơ văn trung đại tính từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Cao Bá Quát... cho đến Miên Thẩm. Là những tài năng của xứ sở thơ ca, những con người đồng thời với Miên Thẩm từ không gian Trung Quốc như Lê Tân, Hà Nhược Dao, Lao Sùng Quang cũng đã có những lời ngợi ca rất mực. Tụng đáo “Bạch âu”, “Hoàng diệp” cú, Cổ hoài tiêu sắc đới thu hàn (Đọc đến câu “Cò trắng”, “Lá vàng”, Trời thu thấm lạnh nỗi xưa sầu... ) Hu ta Công hồ thùy dữ trù? Hu ta Công hồ vô dữ trù! (Ông ơi, ai làm bạn được cùng ông, Ông ơi, chẳng thể ai làm bạn được cùng ông!). Tưởng như họ đã nói lại cái điều mà vào thời Đường một thi sĩ lừng danh cũng đã nói Tương khan lưỡng bất yếm, Duy hữu kính Đình san, tưởng như họ đã nói trước cái điều mà nhà thơ Xuân Diệu sẽ nói vào thế kỷ XX, Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất, Không có chi bè bạn nổi cùng ta! Sự kính yêu ấy có thể là lời đối đãi song nó cũng xuất phát từ thực tế nội dung và nghệ thuật thơ Miên Thẩm mà người đương thời đã nhận ra. Nhìn vào chỉ mảng thơ ông viết từng cảnh đời lao động khổ nhọc của người dân cũng đủ thấy “ những điều trông thấy” của Miên Thẩm mà người nhiều hơn hẳn hai nhà thơ lớn đời Đường là Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị, còn nói riêng về bút pháp và phong cách thì Miên Thẩm dù chung lối thơ Đường song cũng không nằm trong lối đi của Đô, Bạch bao giờ! Còn nói đến lòng trong trắng vô tư thì những rung động của ông đã trở về vẻ hồn nhiên của vũ trụ, mượn trong đó ít nhiều chất hài hòa bản thiện mà yêu lấy cuộc sống làm người Nhân sinh kết giao, Khởi tại hoàng câm, Nam nhi trụy dịa, Thùy vô xích tâm ( Người đời giao du, Đâu phải tại vàng? Trẻ con chào đời, Bé nào chẳng son?) . Cho đến khi trời đất âm u, lòng ác con người cũng đã chất ngất như núi, thì Miên Thẫm bỗng không nguôi nỗi băn khoăn về bản thể thánh thiện của con người Trí xảo danh dự, Đa cốt ngô chân ( Trí xảo danh dự, Hại chân tính ta!). Không còn gì để nói nữa, Miên Thẩm buông một lời kết như nghìn hòn núi đổ xuống, lạnh lùng và nghiêm nghị: Đố mộc tín hữu tội, Hà như bĩ bang đố ( Mọt cây thật có tội, Sao bằng mọt nước kia!). Cứ như thế, thơ Miên Thẩm tràn đầy cung bậc, tiếng sắc tiếng vàng chen nhau cũng có mà tiếng trong như suối chảy, dáng nhẹ thướt tha như mây khói cũng tràn ngập cả lòng yêu, chứa đầy thơ của Nhất đại thi ông. Trong phút giây của năm cuối thế kỷ XX, năm cuối thiên niên kỷ thứ hai sau công nguyên, kỷ niệm 130 năm ngày “ bỏ giày”, lúc “ biết đường đi” của Miên Thẩm, nói lại đôi nét về sự nghiệp văn chương của nhà thơ, kẻ hậu nhân khó mà quên được cái kỳ vọng lớn lao của nhà thơ về chân trời nơi thơ ra đi và nơi thơ trở về để thơ được tôn vinh mà nhà thơ dù như thế nào, dù có ra sao cũng suốt đời ngưỡng vọng vẻ đẹp thiêng liêng bất diệt của thơ. Ôi, có thể nào quên khi người thơ Miên Thẩm đã dặn lại: Hảo cú hốt tòng thiên ngoại đắc, Kỳ thư đa tại mộng trung khan! ( Thơ hay bỗng đến ngoài trời, Sách kỳ nhiều lúc giữa vời mộng xem!) N.T.Đ (137-07-00) |
NGUYỄN PHÚC VĨNH BATrong cuốn “Hồ sơ văn hoá Mỹ”, nhà nghiên cứu Hữu Ngọc có giới thiệu một số nhà thơ cổ điển Mỹ như Walt Whitman, Edgar A. Poe, Henri W. Longfellow… Về Longfellow, ông Hữu Ngọc viết:“Nếu không đòi hỏi tâm lí và tư duy sâu sắc thì có thể tìm ở thơ Longfellow sự trong sáng, giản dị, cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, hình ảnh duyên dáng và âm điệu du dương. Ông làm thơ về lịch sử và truyền thuyết, đất nước và thiên nhiên, ông ca ngợi tình thương, lòng tốt, chịu đựng cuộc đời.
LÊ HUỲNH LÂMTừ “Vọng sông quê” đến “Mang” của Nhà xuất bản Trẻ, rồi “Gửi thiên thần” của Nhà xuất bản CAND và bây giờ là “Đồng hồ một kim” của Nhà xuất bản Văn Học” được gửi đến bạn đọc, Phan Trung Thành đã khẳng định được gương mặt thơ của thế hệ 7.X. Ở đây, số lượng tác phẩm không định hình nên một gương mặt thơ, mà chính những câu chữ đã vẽ lên chân dung một nhà thơ.
TIỂU VĂNGiữa tháng 11 năm 2008, tôi được dự một buổi hội thảo nói chuyện chuyên đề về sách tại Zen Café (phố Ngọc Hà). Đây là buổi nói chuyện của tác giả - dịch giả Lê Thị Hiệu, với bút danh thường gọi là Hiệu Constant, giới thiệu về tác phẩm đầu tay của chị - tiểu thuyết Côn trùng. Buổi nói chuyện nằm trong chương trình “Tôn vinh Văn hóa Đọc” do Công ty Truyền thông Hà Thế khởi xướng và tổ chức.
HÀ KHÁNH LINHHồng Nhu truyện ngắn, Hồng Nhu thơ… Lần đầu tiên nhìn thấy Hồng Nhu xuất hiện tiểu thuyết tôi thực lòng rất mừng. Tuy nhiên đọc gần hết hai chương đầu nỗi lo cứ cồm cộm lên trong tâm thức nhưng chính gần cuối chương II cái chất tiểu thuyết mới bắt đầu hé lộ ra, để rồi từ đó lôi cuốn người đọc cho đến hết truyện.
LÊ QUANG TƯCông trình Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX (những vấn đề lý luận và lịch sử)(1) được biên soạn bởi Trần Ngọc Vương (chủ biên), Trần Nho Thìn, Nguyễn Văn Thịnh, Trần Nghĩa, Đoàn Lê Giang, Kiều Thu Hoạch, Cao Tự Thanh..., do nhà xuất bản Giáo dục in năm 2007, dày 912 trang.
LÝ HOÀI XUÂN(Nhân đọc tập thơ “Mẹ!” của Văn Lợi – NXB Thuận Hoá, 2006)
TRẦN HUYỀN SÂMNhư con thú hoang ôm vết thương lòng đi tìm nơi trú ẩn, gương mặt người thiếu phụ mang nỗi buồn tiền kiếp - tự ngàn xưa: Người thiếu phụ có đôi mắt buồnĐi lang thang trong chiều mùa hạNỗi cô đơn lây sang cả đá...
MAI VĂN HOANNgười đời thì lập ngôn còn Nhụy Nguyên thì “lập thiền”. Thú thực tôi chưa hiểu hết dụng ý của Nhụy Nguyên khi đặt tên cho tập thơ đầu tay của mình là Lập thiền. Bản thân từ Hán Việt vốn ẩn chứa nhiều tầng nghĩa.
BỬU NAMI. Văn học Mêhicô ở thế kỷ XX, có lẽ được xem như một nền văn học năng động và sáng tạo nhất Châu Mỹ La tinh. Táo bạo trong những tìm tòi mới, linh hoạt uyển chuyển trong cách diễn tả, đa dạng phong phú trong cách sử dụng các cấp độ ngôn ngữ, sáng suốt trong cách chọn lựa đề tài, hình thức, ngôn ngữ: tiểu thuyết và truyện ngắn ở Mêhicô tạo được những không gian sáng tạo và đổi mới một cách tự do.
NGUYỄN TÝ51 bài thơ cùng 8 ca khúc được phổ thơ của Trần Hữu Lục vỏn vẹn 120 trang qua tập thơ “Vạn Xuân” (*) mới nhất của anh, người đọc đồng cảm cùng tác giả- một người con xứ Huế tha phương.
NGÔ MINHNhà xuất bản Văn nghệ vừa ấn hành tập ký “Phùng Quán- Ba phút sự thật”, tập hợp mười lăm bài viết, ký thấm đẫm chất nhân văn rất của cố nhà thơ nổi tiếng Phùng Quán.
NGUYỄN ĐÔNG HIẾUTrong cuộc đời làm xuất bản của mình, Phùng Quán là một nhà văn đã để lại cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc, khó quên.
PHẠM PHÚ PHONG Tập nhật ký Tây tiến viễn chinh (do Đặng Vương Hưng biên soạn và giới thiệu, Phạm Tiến Duật viết lời bạt, Nxb Hội Nhà văn, 2005) của liệt sĩ Trần Duy Chiến, bắt đầu viết từ ngày 7.10.1978, khi anh mới nhập ngũ, đến ngày 25.6.1980, trước khi anh hy sinh gần một tháng.
BỬU NAM giới thiệu1. Cuốn tiểu thuyết best - seller “Hồi ức của một Geisha” của nhà văn Arthur Golden vừa được dựng thành phim. Nhà văn Arthur Golden đã dành cả 40 năm cuộc đời mình tìm tư liệu về cuộc sống của những nàng Geisha ở Nhật Bản, để sáng tạo nên một cuốn tiểu thuyết Best - Seller giữ vị trí được bạn đọc thế giới yêu thích lâu dài trên danh mục những tiểu thuyết bán chạy nhất do báo New York Times bình chọn.
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc tập thơ Lệ Thuỷ mút mùa của Ngô Minh)Nói đến Ngô Minh là nói đến thế - giới - cát. Cát trong suy nghĩ của Ngô Minh như thứ ngôn ngữ minh triết về đời sống con người. Là vật chất, nhưng không giản đơn như mọi thứ vật chất. Cát có thể nóng như lửa, lại mềm mại dịu êm dưới chân người. Li ti từng hạt nhỏ, vậy mà bên nhau cát xây nên luỹ nên thành án ngữ dọc biển bờ Tổ quốc. Cát hiền lành trong sạch, khi giận giữ có thể biến thành những cơn bão khủng khiếp.
BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “RỖNG NGỰC” của Phan Huyền Thư, NXB Văn học 2005)
PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.
BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.