Sự khẳng định về một minh triết

10:02 22/01/2010
VŨ NGỌC KHÁNH        (Trích tham luận: “Thử bàn về minh triết”)

Hội thảo "Tìm hiểu giá trị minh triết Việt" tại Huế - Ảnh: Internet

Chúng ta có thể thấy rằng trên thế gian này, dân tộc nào, đất nước nào cũng phải có nền minh triết của mình. Có nền minh triết ấy mới có thể tồn tại và phát triển. Biết sử dụng cái minh triết này, thì mọi việc điều hành chính trị, quân sự, văn hoá v.v… sẽ đúng đắn và bảo đảm được thắng lợi. Ngay ở bên cạnh chúng ta, đã có nhiều nước, nhiều dân tộc đã đi vào quá khứ lịch sử, không còn tên tuổi trên bản đồ thế giới hôm nay, mặc dù đã có cả một nền văn hoá lẫy lừng, hoặc còn lưu lại những di tích có tầm thế giới. Các nước ấy không còn tồn tại nữa, vì nhiều lý do, nhưng có một lý do là vì không có đủ những minh triết cần thiết. Hoặc không có đủ sức mạnh - trong đó có cả những mẹo mực (chiến lược chiến thuật để đối phó với kẻ xâm lăng), hoặc không có được cái sáng suốt để duy trì và phát triển, không có cái khôn khéo trên bàn ngoại giao, không khai thác được cái sức mạnh văn hóa của dân tộc v.v… Còn nhiều nữa. Nhưng phải chăng đều có thể quy vào một nguyên nhân: Không hiểu được cái minh triết của dân tộc mình, không duy trì và phát huy được minh triết.

Việt ta may mắn không ở trong trường hợp ấy. Ta chỉ là một dân tộc, một đất nước nhỏ bé, mà lại phải sống giữa hoàn cảnh luôn luôn bị đe dọa, luôn luôn thấy những thảm họa cận kề. Thậm chí, có lúc, suốt thời gian một ngàn năm, cơ hồ như dân tộc ta đã bị biến mất. Rồi lại đến thời gian hàng trăm năm, dù có tồn tại thì ta vẫn không có tư cách thành một quốc gia. Ấy vậy mà chúng ta đã tồn tại, đã sống. Vậy là ta đã mặc nhiên có một lẽ sống, có cách để sống và để phát triển sự sống ấy. Ở một góc độ khác, ta thường giảng giải về sức sống kỳ diệu của dân tộc ta, vì bản sắc dân tộc của ta là có những ưu việt riêng. Nhưng giảng giải như thế vẫn còn là chung chung quá. Hình như ta đã quên một câu nói dân gian, ngẫm ra thì có ý nghĩa vô cùng: khôn sống, vống chết. Phải khôn thì mới sống được. Vì chúng ta đã khôn, có khôn mới tìm hiểu được vạn vật, thiên nhiên và mới có cách khắc phục thiên nhiên để tồn tại và phát triển. Phải khôn để ứng xử với thực tế với trường đời, vì dại thì chết. Cái khôn ấy chính là minh triết.

Từ xưa đến nay, ta vẫn ít nói đến cái minh triết này. Không quen nói lý luận, ta chưa nâng được minh triết này thành học thuyết. Nên chăng là giờ đây, ta đã có thể làm được việc ấy?

Tuy nhiên, việc đi tìm minh triết Việt cũng không phải là một hành trình đơn giản. Có lẽ đây cũng là một cách nói khác đi về việc đi tìm bản sắc dân tộc Việt .

Phải đi vào nhiều bình diện, nhiều lĩnh vực để tìm tòi. Phải thật sự khách quan, công bằng với mình, không vì đầu óc dân tộc hẹp hòi mà thiên lệch, có nhiều điều rõ ràng cụ thể, mà cũng có những thứ “vô ngôn”, nhưng vô ngôn mà lại rất đa ngữ, đa ý tứ.

Là vô ngôn, nên không có bằng chứng gì về văn bản, về chủ thuyết để đối chiếu, phân tích. Có lẽ, chỉ đi vào nền văn hoá dân gian, vào folklore Việt thì việc tìm tòi mới có phần thuận lợi hơn. Vì tất cả cái hồn, cái chất, cái mờ, cái rõ… của dân tộc đều thấy được trong folklore. Những gì mà nhân dân bao thế hệ đã qua thu thập, tích lũy để thấm nhuần và ứng xử, đều có trong văn hoá dân gian. Ở đây, người dân tự thân sáng tạo ra những cái riêng của mình. Người dân học tập, thu thập những cái ngoại lai, nhưng chỉ tuân theo cái gì hợp với mình, hoặc sẽ hoán cải đi để thành của mình, chứ không chịu tiếp thu một cách máy móc, nô lệ. Cái làm nên minh triết Việt là ở đó.

V.N.K

(251/01-2010)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.

  • THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.

  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.

  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".