Sự hoài sinh từ những ảnh tượng

08:50 29/08/2012

LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

(Đọc tập thơ Mật ngôn của Lê Huỳnh Lâm, Nxb Văn học, 2012)

Thơ, ngay trong bản thể chính nó đã là một thế giới của những cảm thức dung tụ, thoát hiện bằng một hệ tầng hình tượng ngôn ngữ. Người thơ hòa vào biển từ bao la để thiết lập nên thế giới theo quán giải của riêng mình. Điều ảo diệu của thơ lắng mặn trong tàng thức của chúng ta, và khi mạch nguồn được khơi mở, những ám gợi sẽ tung vỡ để tạo nên những hồn thơ hoài hoải kiếp người. Chúng ta đọc được những tâm cảm đó qua ngôn ngữ thơ Lê Huỳnh Lâm, về một “cõi riêng” mà anh đang “phát quang” từ rừng chữ thăm thẳm đang không ngừng nhảy múa.

Từ tập thơ đầu tay Thi ca mùa ngái ngủ với ý hướng “Muốn vượt qua những lối mòn đang đẩy nghệ thuật quẩn quanh trong khu rừng của sự mỹ miều nhưng trống rỗng” (Phạm Tấn Hầu), nay anh tiếp tục “tái xuất” với những dòng chữ ám dụ của Mật ngôn để chứng khảm bao điều biến hiện, đầy vẻ huyễn hoặc của thực tại.

Những bài thơ đa phần được dẫn dụ từ thái độ sống và cách nhìn nhận đến từ những bế tắc, hoài nghi và thắc thỏm. Hàng loạt biểu tượng kiến thiết trên cái nền ấy, trong một dung môi thời gian và không gian chảy xuyết ẩn ức. Thơ Lê Huỳnh Lâm ít nhiều mang dáng dấp tính chất Tiểu tự sự (Petit Narrative) của chủ nghĩa Hậu hiện đại. Những nhận thức về thế giới hiện tồn qua những ảnh tượng hoặc bế thảm hoặc khởi sắc trong bi lụy đang trên tiến trình bất định, gợi mở một khả năng chân lí lẻ loi, nhưng đâu đó vẫn là trạng thái đầy hoài nghi, luôn đứt gãy, dị biệt và lạc lõng của lí trí.

Với dòng chảy đó, đầu tiên, Lê Huỳnh Lâm đã phát hiện ra những bế tắc không hợp lí của con người và của chính cái bản ngã mình vốn đã được “mặc định” theo ý hướng thiêng liêng. Sự bế tắc đến từ những biểu tượng từ con người, con vật, cây cỏ mà rộng lớn nhất là đến từ sự thâm cùng của vũ trụ khắc khoải: Tiếng đêm/ Xé rách màn trinh mặt trời/ Loang lổ màu kinh/ Bừng cháy (Tiếng đêm).

 
Những xung đột của thời khắc và không gian được thấu hiện, là đêm, là mặt trời, là tối, là sáng, luôn giẫm đạp lên nhau. Một vụ big bang được thấu hiện. Ngay cả vũ trụ đã chứa đựng những điều hằng diễn tưởng chừng là yên ổn hóa ra bất ổn. Từ trong bóng tối tiếng đêm kinh hoàng, nơi dung chứa tội lỗi, điều bất thiện luôn sẵn sàng đánh đổ những chân giá trị và dám Xé rách màn trinh mặt trời.

Mặt trời ấy, nếu là chân lí, ắt hẳn là chân lí tuyệt đối được thức nhận vĩnh cửu từ thuở hồng hoang. Và cũng chính chân lí ấy hiện phải đối mặt: Nước vẫn bay trên đôi cánh mặt trời/ Mặt trời nở hoa ngập máu (Trên con đường sẽ không còn dấu chân anh).

 
Không còn là diễm ảnh của thứ ánh sáng kì vĩ, mặt trời dường như đang đi vào quỹ đạo sáng không tự chủ Mặt trời nở hoa ngập máu. Nếu có thể vẽ một bức tranh, đây có thể là một tác phẩm hội họa tuyệt vời. Sự phóng tưởng đã đẩy người thơ lại gần với chân lí - mặt trời để trực nhận khoảnh khắc vi tế ấy.

Vũ trụ đã kinh qua vụ big bang lớn, trong khi đó con người - tiểu vũ trụ đang đối mặt với vụ big bang bế tắc. Khi bàn đến con người, trung tâm của thế giới thơ, Lê Huỳnh Lâm biên khảo ra hội chứng vô cảm của nhân tâm con người như cái hiện tượng:

Mảng xám trên chiếc băng ca ngả màu
Loang lổ vệt huyết
Và sự điềm nhiên trên những đôi mắt.
                               
(Buổi sáng trên sông Hương)

Một buổi sáng không hề êm đềm trên dòng sông thi ca xứ Huế. Người thơ đã chộp lại hình ảnh quá đỗi bình thường của những con người quá đỗi vô cảm ngay chính nỗi đau đồng loại. Câu hỏi lớn về đạo làm người thất lỡ lương tri, tình thương bị phân giải thành thứ vật chất thô cứng, vô hồn.

Tiếp đó, trong cái thế giới người bế tắc mà Lê Huỳnh Lâm vẽ ra, không ít những hình ảnh huyễn hoặc, bí nhiệm đã hiện lên: “Những viên gạch đậy che bí tích/ Loang lổ bước đèn vàng/ Bóng người đàn ông làm tình chiếc bóng” (Đêm rên siết trong vòng tay mười hai ngón).

 
Lại một vết xước được cậy lên từ đêm. Một đêm tối được đặt kì dị như chính cái tên bài thơ: Đêm rên siết trong vòng tay mười hai ngón. Sự nhầm lẫn của con số hay chính là cái sự thực khó chấp nhận của điều bất bình thường vòng tay mười hai ngón đã cảnh báo về một ảnh tượng còn “khó chấp nhận” hơn: “Bóng người đàn ông làm tình chiếc bóng”. Từ đêm, những đam mê cô độc đã cháy, đã diễn đi những ý niệm phân tâm của cái gọi là hành vi sai lạc (Freud). Không, đó là bế tắc và hẳn là bế tắc của một sinh linh tha hóa đi bản thể của chính mình.

Và cũng chính trong tập Mật ngôn này, Lê Huỳnh Lâm khi bàn đến sự bế tắc, thảm cảnh của cõi người đã phần nào bật mí cái nguyên do sâu kín:

trên những bộ mặt vắng đức tin
triệu con mắt vô tình/ triệu cái miệng câm nín
thèm nghe kinh cầu an
                  
(Bình minh đen)

Chối bỏ đức tin đồng nghĩa với chối bỏ tâm linh, thế giới huyền nhiệm mà nhãn giới con người khó có thể nắm bắt. Một loạt trạng thái vắng đức tin - vô tình - câm nín của con người vốn chỉ thấy mình, thỏa mãn thực tại trống rỗng tình người để rồi ngày mai đón chờ một Bình minh đen khó tránh. Đó hẳn là dụ ngôn bị phủ lấp bởi lớp vỏ vật chất phù hoa làm con người quên đi viên ngọc cần phải rèn giũa để thắp sáng phần tâm nhân bản luôn có sẵn trong mỗi cá thể.

Sự khủng hoảng đã lên đến tột đỉnh của sự bế tắc khốn cùng của kiếp người:

Người thiếu phụ rao bán giấc mơ
Giữa mùa hạ muộn màng
                     (Một ngày và một đêm)

Đến giấc mơ cũng đem đi rao bán, có lẽ chẳng còn gì có giá trị hơn những ảo ảnh chiêm bao nơi còn sót lại những gì loài người khao khát Giữa mùa hạ muộn màng. Thi cảnh mà Lê Huỳnh Lâm vẽ ra trong câu thơ chất ngất hình tượng này, một lần nữa có thể gọi là một tác phẩm hội họa đầy đủ bố cục, màu sắc, hình tượng, ý tưởng tròn trĩnh...

Vũ trụ và con người - tiểu vũ trụ trong thế giới thơ của Lê Huỳnh Lâm đương đối mặt với bế tắc, những mối nguy rình rập. Những đổ vỡ đã được xác nhận, mảng chìm, mảng nổi, trong và ngoài, lớn và bé. Ngay như loài sinh vật tượng trưng cho sự phóng tưởng niềm hân hoan cao vút như giống chim cũng phải đối mặt: “Những con chim trú mình bật khóc/ Phá sản sự thiêng liêng” (Thời khắc Nam Giao).

Mượn chim luận người. Thời khắc ấy đã đến, thời khắc thiêng liêng đã bị phá sản qua sự tế cúng hình thức. Bấy nhiêu tín điều thô ráp đã phơi bày, bấy nhiêu hờn khổ kinh trải rất vi tế. Người thơ đã đắm mình, thật sự chìm sâu giữa biển khơi bất ổn. Chúng ta còn bắt gặp cả những thi ảnh sầu rượi được nhận biết từ:

Hàng cây ưu tư nở những trái buồn
Gắn vào nét mặt ruộng đồng
Những dòng xanh hoang lạnh
                     
(Tiếng gọi của đất)

Ngay cả cây cối cũng bị phơi nhiễm những trăn trở toát ra từ nhân thế. Để bói ra những trái buồn như một hệ quả bất ổn triền miền. Mượn cảnh nói người, mô phỏng tâm trạng rối bời hoang lạnh như chính dòng sông cô độc. Toàn cảnh vật phủ lên thứ dung ảnh ảm đạm.

Một ảnh tượng của sự thanh khiết: Hoa - dung nhan cuộc sống đã được người thơ kiếm tìm, thay vì là niềm vui được chiêm ngưỡng cái đẹp lại phủ lên một ám ảnh: Hoa nở tràn nấm mồ/ Phủ kín mặt đất tật nguyền (Hư vô).

Những nỗi buồn vọng lại từ ngay chính phút huy hoàng, thiêng liêng của lịch sử khi tất cả được bạch định bằng sự tri ân, hồi cố. Chúng ta đã làm nên lịch sử và trả giá cho lịch sử là nấm mồ, là nghĩa trang. Để rồi dùng hoa để quên đi tất cả bằng màu sắc êm dịu, lãng quên trong nỗi buồn thiên thu tật nguyền.

Nếu chỉ diễn đạt thế giới chỉ là bế tắc, mãi bế tắc không có lối thoát ắt hẳn không một người thơ nào muốn vậy. Thế giới Lê Huỳnh Lâm vẫn có những ánh đuốc, những bông hoa được hoài sinh từ đổ nát. Đầu tiên, đức tin được chọn lựa để khỏa lấp cái hố hèn mọn đang nới rộng: Chỉ còn tin vào những gốc cây ven đường/ Ai đó đã dựng lên những mái nhà linh hồn (Buổi sáng trên sông Hương).

Khi mọi tín ngưỡng đều di trú hình thức, con người đã tìm lại những chốn  thiêng gần gũi. Những am thờ dưới những tán cây linh thiêng, dễ gặp bất cứ nơi đâu. Đó chính là những mái nhà linh hồn xứng đáng, là nơi trú xứ của bao điều tâm linh.

Con người cũng đang quay trở về, để không đánh rơi mình trên bước đường nhân thế gian truân:

em làm dấu thánh trên cánh đồng
linh tượng buồn trăm năm nở loài hoa dại
(†).

Ngay cả khi thời gian chết đi, sự hoài sinh vẫn là khát khao thơm ngát: Khi tất cả những chiếc đồng hồ ngừng lại/ Anh hái đóa thời gian thả vào mạch máu/ Hai bờ ngực trái nở hoa (Khi tất cả những chiếc đồng hồ ngừng lại).

Đoạn thơ này khiến chúng ta nhớ đến một câu nói bất hủ của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa”. Ánh sáng luôn ở cuối còn đường, hãy hi vọng, hãy đặt bông hoa lên mình để Hai bờ ngực trái nở hoa như Lê Huỳnh Lâm mường tượng. Giờ đây, hoa lại nở rộ bằng chính linh hồn nó để thanh lọc:

Những ươn hèn bùng lên thành ngọn sóng/ Cánh đồng tội ác nở bạt ngàn đóa sen (Ký tượng buồn).

Và sen thánh thiện đã nở trên Cánh đồng tội ác để làm lu mờ tất cả, hãm đi cái mùi tanh nhơ của tội lỗi. Chân - thiện - mỹ được xác lập, được ngự trị. Đó là ngọn đuốc dẫn đường, là mái nhà chở che, là âm thanh hiền hậu: Chỉ còn tiếng thét triệu năm vọng lại/ Hóa lời ru trên đôi môi mẹ hiền (Nơi tận cùng).

Từ tiếng thét chuyển biến qua lời ru tất yếu là một sự tiến hóa tuyệt vời của con người, sản phẩm từ thời gian. Sự hoài sinh hiện hữu bởi đóa hoa thiện nhẫn, là lời ru hiền dịu, ngọt ngào của mẹ mãi thơm ngát giữa biển đời lao lung. Cuối cùng, Lương tri được đánh thức rất tự nhiên như chính điều “bất khả tư nghị” đồng hành với con người:

Ánh sáng không phát ra từ mặt trời
Ánh sáng không phát ra từ những cái đầu đen tối
Ánh sáng trên những bàn tay/ Biết chìa ra, biết ôm vào
                        
(Trên con đường sẽ không còn dấu chân anh)

Mọi sự bất hợp lí, mọi sự lung lạc phút chốc được sắp xếp theo một trật tự, chỉnh chu. Người thơ đã chọn ra được ánh sáng xuất phát từ chân lí:

 Ánh sáng trên những bàn tay
Biết chìa ra, biết ôm vào.


Đó là thứ ánh sáng bất diệt của lòng nhân ái mà con người được tạo hóa gieo mầm ban sơ: muôn đời gìn giữ, muôn đời tinh tấn, hẳn vậy.

Từ bước chân khẽ khàng của Thi ca mùa ngái ngủ khắc đậm dấu ấn tinh khôi và ẩn giấu lẽ chân nhiên đầy ám mị, Mật ngôn có phần nhích gót ra ngoài biên độ mỹ miều, để tái tập trung “một cuộc đại phẫu” suốt từ vũ trụ cao rộng, đến con người… và cả bông hoa vi mô. Biên độ được nới rộng, thơ trở thành mạch nguồn ăm ắp nước nuôi dưỡng cánh đồng lương tri đang ngày càng khô kiệt. Giá như phù sa được cô đặc, dòng sông sẽ không phải vật mình vì lưu vực rộng mở để ban phát sự phì nhiêu.

Những dòng Mật ngôn của Lê Huỳnh Lâm là tiếng nói nội tâm văng vẳng từ thẳm sâu tiềm thức. Một thế giới vừa rối ren, cùng quẫn lại vừa huyễn hoặc, si mê lạ thường. Mọi vỉa tầng có khi đang suy tàn, tăm tối nhưng lại luôn nung náu một sức sống mãnh liệt sẵn sàng khỏa lấp thứ bóng tối vô minh đáng nguyền rủa. Mặt trời sẽ vẫn nở hoa soi rọi chân lí và hoa sẽ luôn tỏa ánh hương diệu vợi thanh tẩy mọi hoen rỉ của thế giới người tạm bợ. Khi ấy, thơ là dạng linh hồn tinh khiết vỗ cánh bay cao.

Lập hạ - 2012
L.V.T.G
(SH282/08-12)








 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM TRƯỜNG THI  

    Trong số các nhà thơ thời tiền chiến người quê gốc Nam Định, có ba nhà thơ mặc dù khác nhau là không được sinh ra cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, cùng một miền đất nhưng họ lại rất giống nhau là đều khóc tiếng khóc chào đời nơi vùng đồng chiêm trũng, nghĩa là nơi được xem là những cái rốn nước của tỉnh Nam Định.

  • HỒ HUY SƠN  

    Năm 2019, văn đàn Việt chứng kiến một cuộc chuyển giao trong đời sống văn học trẻ nước nhà. Thế hệ 8X vẫn cần mẫn viết nhưng có xu hướng trở nên lặng lẽ hơn; trong khi đó, thế hệ 9X lại đang có một sức bật không kém phần táo bạo, bất ngờ. Bài viết dưới đây nằm trong sự quan sát mang tính cá nhân, với mong muốn đưa đến người đọc những nét nổi bật trong năm qua của văn chương trẻ.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trong mấy thập niên gần đây, cái tên Nguyễn Thị Thanh Xuân không còn xa lạ với độc giả trong cả nước.

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH  

    Trong một tiểu luận bàn về Ngoại biên hóa trong tiến trình văn học Việt Nam đương đại, học giả Trần Đình Sử xem “ngoại biên hóa chủ yếu là phương thức tồn tại thông thường của văn học”.

  • HỒ THẾ HÀ

    Mấy mươi năm cầm bút đi kháng chiến, Hải Bằng chỉ vỏn vẹn có 1 tập thơ in chung Hát về ngọn lửa (1980) ra mắt bạn đọc.

  • LÝ HOÀI THU    

    Trong bộ tứ bình bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, xuân là bức màn thứ nhất, là khúc dạo đầu của nhịp điệu thiên nhiên. Đó vừa là không gian, vừa là thời gian để vòng tuần hoàn của sự sống tồn tại và sinh sôi.

  • LÝ HOÀI THU    

    Trong bộ tứ bình bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, xuân là bức màn thứ nhất, là khúc dạo đầu của nhịp điệu thiên nhiên. Đó vừa là không gian, vừa là thời gian để vòng tuần hoàn của sự sống tồn tại và sinh sôi. 

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH  

    Trong thế hệ những nhà văn tuổi Canh Tý đương thời (sinh năm 1960), Hồ Anh Thái chiếm lĩnh một vị trí nổi bật. Càng đặc biệt hơn khi hình ảnh con chuột từng trở thành biểu tượng trung tâm trong văn chương ông. Nhân dịp Tết Nguyên đán Canh Tý (2020), hãy cùng nhìn lại cuốn tiểu thuyết được ông viết cách đây gần một thập kỷ.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO

    • Để chọn được những áng thơ hay, những người thơ có tài, người ta thường mở các cuộc thi, và cuối cùng là giải thưởng được trao.

  • PHẠM XUÂN DŨNG

    Nhà thơ Tố Hữu là người xứ Huế nhưng lại có nhiều duyên nợ với Quảng Trị, nhất là đoạn đời trai trẻ, đặc biệt là với địa danh Lao Bảo.

  • TRẦN THÙY MAI  

    Đọc tập sách của Nguyễn Khoa Diệu Hà, với hơn 30 tản văn, tôi có cái cảm giác như đang ngồi trên tấm thảm thần Aladin bay về một miền mà không có xe tàu nào đưa ta đến được một miền thương nhớ đặc biệt “Ở xứ mưa không buồn”!

  • NGUYỄN QUANG THIỀU  

    Có không ít các nhà thơ lâu nay coi sứ mệnh của thơ ca không phải là viết trực diện về những gì đang xẩy ra trong đời sống con người.

  • VŨ VĂN     

    Một mùa xuân nữa lại về, mùa xuân của hòa bình, của ấm no và những đổi thay của đất nước. Nhưng đã có thời kỳ, những mùa xuân của dân tộc đến vào những lúc chiến tranh vô cùng gian khổ, trong lòng nhiều người từng sống qua những năm tháng ấy lại dâng lên niềm thương nhớ Bác, nhớ giọng nói của Người, nhớ những lời chúc Tết của Người vang lên trên loa phát thanh mỗi đêm Giao thừa.

  • ĐỖ QUYÊN  

    1.
    Du Tử Lê
    thường được xem là một trong bảy nhà thơ hàng đầu của nền văn học miền Nam Việt Nam trước năm 1975, cùng với Bùi Giáng, Vũ Hoàng Chương, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Đinh Hùng, và Nguyên Sa. Cây thơ cuối cùng ấy đã hết còn lá xanh giữa mùa thu này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ    

    (Nhân đọc các tập truyện của Trần Bảo Định vừa được xuất bản)

  • LƯU KHÁNH THƠ   

    Giai đoạn giao thời ba mươi năm đầu thế kỷ XX đã chứng kiến sự thay đổi vị trí xã hội của người phụ nữ. Từ “chốn phòng the”, một số người phụ nữ có tri thức và tư tưởng tiến bộ đã mạnh dạn vươn ra ngoài xã hội, bộc lộ suy nghĩ, chủ kiến riêng và thể hiện con người cá nhân của mình.

  • PHẠM PHÚ PHONG    

    Trong vô tận (Nxb. Trẻ, 2019) là cuốn sách thứ mười ba và là tiểu thuyết thứ tư của nhà văn Vĩnh Quyền.

  • HOÀNG THỤY ANH

    “Đá”(1) là tập thơ thứ 5 của tác giả Đỗ Thành Đồng. Điểm xuyết, vấn vương một chút dáng dấp của “Rác”, “Rỗng”, “Xác”(2), nhưng thần thái của “Đá” đã khác.

  • ĐÔNG HÀ

    Mỗi dân tộc có một số phận lịch sử. Và lịch sử chưa bao giờ công bằng với dân tộc Việt chúng ta, khi trải qua hơn bốn ngàn năm, luôn phải đặt số phận con dân dưới cuộc chiến. Vì vậy, để viết nên trang sử nước nhà, không chỉ những chính sử gia, mà các nhà văn, nhà thơ, người cầm bút, không tránh chạm ngòi bút của mình vào nỗi đau của dân tộc.