UÔNG TRIỀU
Trước kia tôi mê F.Dostoevsky và đánh giá ông là một nhân vật vĩ đại. Tất nhiên bây giờ ông vẫn là một nhà văn vĩ đại bất chấp cảm giác của tôi thế nào.
Ảnh: internet
Thế nhưng tôi đã giảm sự yêu thích ông khá nhiều khi đọc lại những cuốn tôi thích nhất, ví như Tội ác và hình phạt. Tôi đọc lại cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Dos để kiểm tra lại cảm giác choáng ngợp của lần đầu đọc. Ông đã khiến tội hụt hẫng khi đọc lần hai. Lần thứ nhất, tôi đã đứng tim khi đọc những dòng mô tả về Raskolnikov khi hắn phạm tội giết người. Lần sau, tôi đã không còn cảm giác như thế nữa. Raskolnikov làm tôi khá dửng dưng. Tôi đã biết được diễn biến và không hứng thú nữa. Sự đọc lần hai này tôi đã bình tĩnh hơn rất nhiều và có lẽ điều đó đã làm giảm sự đam mê của tôi đối với ông. Tôi vẫn kính trọng F.Dostoevsky nhưng ông không làm tôi mê mẩn như lần đầu nữa.
Điều đó không xảy ra tương tự với Lev Tolstoy hay nói khác đi sự giảm sút cảm xúc ở Lev không nhiều như ở Dos khi đọc lại lần hai. Tôi vẫn ngỡ ngàng trước những hành động của Anna Karenina, vẫn thấy một sự cảm thương vô bờ với nàng. Sự miêu tả của tác giả với những diễn biến tâm lí của người đàn bà quý tộc ấy khi rơi vào vòng xoáy tình ái vẫn khiến tôi xúc động. Những hành động bản năng đầy kiên quyết của nàng vẫn khiến người đọc thông cảm, đón đợi. Lev Tolstoy vẫn làm tôi hứng thú, kể cả với cuốn tiểu thuyết mang tính lí tưởng của ông là Phục Sinh. Những suy nghĩ của chàng công tước Nekhliudov về cái ác, nhà tù, nỗi thống khổ của con người vẫn có sức lay động.
Sự đọc lại là một sự trải nghiệm khắc nghiệt với tác phẩm, dù tinh thần cơ bản là bất cứ tác phẩm nào, ở lần đọc sau, cảm xúc đều bị suy giảm ít nhiều. Có tác phẩm suy giảm chút ít, có tác phẩm bị mất đi một khối lớn và cá biệt từ non cao rơi thẳng xuống vực thẳm. Thế nên ban đầu tôi xếp Dos cao hơn Lev. Dos đứng vị trí thứ nhất trong các nhà tiểu thuyết Nga cổ điển, Lev ở vị trí thứ hai nhưng sau khi đọc lại, vị trí đã bị đổi ngược. Tôi viết những cảm nhận về hai nhà văn nói trên ở mạng xã hội facebook, một bạn đọc đã hỏi tôi: Vì sao như vậy? Tôi trả lời rằng: Đọc lại mà vẫn thích, điều ấy khó hơn. Cho nên trong cảm quan cá nhân của tôi bây giờ Lev là số một trong các nhà tiểu thuyết Nga cổ điển. Lev Tolstoy đã làm được cái điều mà tôi nghĩ F.Dostoevsky rất khác biệt. Tác giả của của Chiến tranh và hòa bình, Anna Karenina, Phục Sinh... làm cho tôi cảm thấy rằng câu chuyện ông kể là rất thực, còn Dos, ấn tượng lần sau là những câu chuyện của ông phi thực, nó giống những vở kịch được dàn dựng nhiều hơn. Và đọc những câu chuyện được dàn dựng, dù có khéo léo đến mấy thì lần sau đều ít hứng thú.
Tôi vẫn nhớ cảm giác choáng ngợp khi lần đầu đọc Salammbô của G.Flaubert, sao mà nhiều cảnh hùng vĩ và ấn tượng đến thế. Tôi thán phục trước những cảnh hoành tráng mà miêu tả vô cùng tỉ mỉ của Flaubert. Những cuộc chiến tranh đầy màu sắc và âm thanh giữa các bộ tộc, tác phẩm như một cuốn phim với rất nhiều cận cảnh vĩ đại. Ông có một trí nhớ và một óc họa sĩ thiên tài. Nhưng ở lần đọc sau, những cảm giác đó trong tôi mất đi nhiều lắm. Tôi thấy Salammbô chỉ là một tác phẩm hay, không đến mức gây choáng ngợp bàng hoàng. G. Flaubert quá cầu kì, quá dàn dựng và khi người ta đã biết được ý đồ của tác giả thì họ không còn hồi hộp chờ đợi nữa.
Sự khác biệt ấy có thể xảy ra ở cùng một tác giả với những tác phẩm khác nhau. Vẫn là Flaubert nhưng với Bà Bôvary thì cảm giác gần như trái ngược. Lần sau của Bà Bôvary vẫn khiến tôi ưa thích với những phiêu lưu tình ái đầy nguy hiểm của người đàn bà ấy, dù sự hồi hộp đã mất đi một lượng không tránh khỏi. Sự kiểm chứng này rất giống với trường hợp của Anna Karenina, đọc lần sau, người ta vẫn tin rằng điều ấy có thực và có thể chính mình đã rơi vào vòng xoáy ấy. Sự cám dỗ của những người đàn bà đẹp, người ta nhìn thấy sự nguy hiểm của vấn đề mà không sao thoát ra khỏi. Bi kịch của bà Bôvary giống hệt của Anna Karenina nhưng tất nhiên vấn đề không phải là nội dung câu chuyện. Điều tài tình là tác giả đã khiến cho người đọc lần sau vẫn tin vào câu chuyện, dẫn dắt họ đi theo cảm xúc và nhập cuộc theo những cảm xúc ấy. Và điều đó khiến cho tác phẩm được thích lâu hơn?
Sự đọc lại vô cùng nghiệt ngã. Tôi ngưỡng mộ nhiều hơn những tác phẩm trụ được lần đọc thứ hai, thứ ba và hơn nữa. Thôi thì tạm gác qua những vĩ nhân cổ điển. Giờ ta đi gặp những “ông lớn” đương đại xem thế nào.
Nói thật là khi Cao Hành Kiện vừa được dịch ra tiếng Việt với Linh Sơn tôi đã không thể nào đọc nổi ông. Đọc được mươi trang tôi đã vất sách và không nghĩ sẽ có ngày đọc lại. Khoảng mười năm sau, tôi mới đọc lại Cao Hành Kiện và vô cùng thích thú. Nhưng tôi vẫn nghi ngờ cảm giác của mình giống như khi đọc Salammbô của G. Flaubert, tôi để lắng lại ít nhiều và tiếp tục với Linh Sơn. Kinh ngạc. Lần kiểm tra này cảm xúc vẫn gần như lần đầu và đến lần thứ ba, thứ tư, họ Cao bị mài mòn rất ít và tôi nghĩ cuốn tiểu thuyết của họ Cao là một trường hợp vô cùng đặc biệt. Nó chống lại cực tốt sự bào mòn. Lại sao có được trạng thái ấy, có phải tác giả đã không muốn giải quyết vấn đề một cách rốt ráo, cuộc đi tìm ngọn núi thiêng chỉ là một cái cớ? Và xen vào cuộc truy tìm là rất nhiều những câu chuyện về lịch sử, văn hóa Trung Hoa. Nhưng cuốn sách cũng không phải viết về văn hóa lịch sử Trung Hoa, nó là một sự “lừng khừng” giữa các lằn ranh giới, giữa tiểu thuyết và tản văn, giữa kí sự và triết luận. Nó không triệt để vấn đề để tạo khoái cảm quá lớn của lần đầu nhưng đến lần thứ hai, thứ ba vẫn bóc tách, khám phá những mảng lớp mới. Đó là sự tài tình và khác biệt của Cao Hành Kiện. Nhưng tất nhiên đấy là cảm xúc riêng của tôi, một người bạn văn khác thì đánh giá, anh không thể nào chịu nổi họ Cao lần hai!
Milan Kundera đã được dịch rất nhiều ra tiếng Việt và fan hâm mộ của ông không phải ít. Tôi đã đọc toàn bộ những gì của ông được dịch ra tiếng Việt, độ chục cuốn. Nhà văn gốc Séc này có một điểm rất đáng nói về góc độ đọc lại. Các tiểu thuyết, tiểu luận của ông đa số đều vượt qua được những lần bào mòn cảm xúc, những cuốn xuất sắc nhất có thể kể đến: Sự bất tử, Đời nhẹ khôn kham, Nghệ thuật tiểu thuyết, Màn... Tại sao Milan Kundera làm được điều này, có phải những triết luận đan xen trong tiểu thuyết của ông là vừa đủ, vừa đủ độ kích thích hưng phấn sau mỗi lần đọc và không bị mệt mỏi cho những lần tiếp sau? Nó như một nhắc nhớ nhẹ nhàng về cuộc sống, đọc nó không bị phiền lòng, không bị giáng những đòn quá mạnh nhưng vẫn đủ sâu sắc. Đa số sách của Milan Kundera không làm tôi suy giảm hứng thú với những lần trở về, cho nên ở những chuyến đi xa, tôi thường chọn vài cuốn của Kundera để mang theo cùng hành trình.
Tôi thử nghiệm sự đọc lại với hai cuốn tiểu thuyết thuộc loại thành công nhất của các nhà văn Việt đương đại: Thời xa vắng của Lê Lựu và Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Thời xa vắng của Lê Lựu gợi cho tôi những nỗi buồn của anh chàng Giang Minh Sài nhưng những lần đọc sau tôi càng ít buồn hơn. Có lẽ, vì cái sự “thời vụ của lịch sử” đã thay đổi, cái “thời cuộc” của đời anh Giang Minh Sài không kéo dài và bây giờ không lặp lại nữa. Với Nỗi buồn chiến tranh thì dường như tính lặp lại và những quãng rung động về chiến tranh, tình yêu vẫn còn nhiều. Người đọc vẫn thấy mình có cơ hội trải qua nó hoặc nghĩ về nó với những gần gặn của liên tưởng và trải nghiệm. Sự suy giảm khoái cảm của Bảo Ninh ít hơn của Lê Lựu và tôi nghĩ rằng đó đều là hai tượng đài của tiểu thuyết Việt Nam mà có lẽ cần thêm nhiều thời gian nữa để có đối thủ vượt qua.
Câu hỏi đặt ra là các nhà văn, họ viết cho lần đọc thứ nhất hay cho lần đọc thứ hai hoặc nhiều hơn và có bí quyết gì không? Có lẽ không ai đặt ra câu hỏi ấy khi bắt tay vào viết và tôi nghĩ cũng không ai giải nổi bài toán này. Lev Tolstoy chắc chắn không ý định viết Anna Karenina cho người ta đọc lần thứ hai mới thích và F. Dostoevsky sẽ không ngốc mà nghĩ rằng ông chỉ làm cho người ta choáng ngợp ở lần thứ nhất. Và ở cùng một tác giả đã có sự khác biệt như ở trường hợp G. Flaubert, cả Lê Lựu hoặc Bảo Ninh... Bằng một sự mẫn cảm hoặc thiên phú, xuất thần nào đó của tác giả mà ta khó giải thích nổi sự khác biệt ở những tác phẩm cụ thể của họ ở những lần đọc lại và không hề giống nhau. Cùng tác giả mà có cuốn thích đọc hơn một lần, cuốn khác lại không thế và ngay cả ở quy mô nhỏ hơn, những truyện ngắn cũng có nhiều trường hợp tương tự. Một truyện ngắn của Bảo Ninh tôi rất thích khi lần đầu khi đọc trên báo là Bội phản, nhưng rồi khi tôi chọn nó để đọc cho một mục đích khác tôi đã thất vọng vì cảm xúc xưa đã bị mất đi khá nhiều. Ngoài vấn đề tài năng hay nội dung của tác phẩm thì những khác biệt này còn có thể suy nghĩ theo một hướng khác nữa: “cái tạng của tác phẩm”. Tác phẩm “tạng này” thì chỉ nên đọc một lần, còn “tạng kia” thì có thể nhiều lần?
Sự đọc lại nghiệt ngã như nhúng kim loại vào a xít. Có lẽ vì thế mà nhiều nhà văn đôi chút lo sợ khi đọc lại tác phẩm của mình và những bạn đọc, vì quá yêu mến một tác phẩm nào đó cũng ngần ngại khi đứng trước sự thử thách này. Sự đọc lại giống như một lưỡi cưa máy rất sắc, ít trang bị bảo hộ. Chiếc cưa có thể cắt đứt ngay một thân cây lớn và cũng có thể làm tổn thương chính người dùng. Những tác phẩm đã vượt qua được sự nghiệt ngã của sự đọc lại thì có thể chúng đã sở hữu một vé đi vào sự bất tử của văn chương.
U.T
(SHSDB33/06-2019)
LÊ HUỆCuộc thi Truyện ngắn cho sinh viên Huế do tạp chí Sông Hương tổ chức đã thu hút được sự tham gia của rất nhiều các bạn trẻ mang trong mình khát vọng văn chương. Những truyện ngắn dự thi đã cho ta thấy được một vóc dáng mới của các cây bút trẻ Huế hiện nay: phản ánh cuộc sống đương đại từ nhiều góc cạnh bằng bút pháp tinh tế, mới mẻ, giàu trí tuệ và đầy chất thơ. Mười lăm truyện ngắn xuất sắc lọt vào chung khảo đã được tập hợp lại thành ấn phẩm mang tên “Yêu xa xa một phút”.
PHAN MINH NGỌC“Bài thơ về biển khơi” (*) là tập sáng tác đầu tay của cây bút nữ Trần Thùy Mai.
NGÔ HƯƠNG GIANGLàm thế nào để diễn giải hợp lý về Tường Thành?
KHẢI PHONGTôi đã có dịp gặp những trang thơ chân chất của Nguyễn Quang Hà trong “Tiếng gà trên đỉnh chốt”(1). Lần này gặp văn Nguyễn Quang Hà trong “Mùa xương rồng nở hoa” (2), cảm tưởng lưu lại trong tôi là văn anh gây được ấn tượng mạnh hơn thơ.
NGUYỄN ĐÔNG NHẬT19 lời chứng của những ONS(1) cuối cùng, lần đầu tiên được lên tiếng qua công trình nghiên cứu hoàn hảo của bà Liêm Khê LUGUERN(2) là những nhân chứng cuối cùng trong số khoảng 27.000 người từ Đông Dương bị lùa đến nước Pháp từ tháng 10/1939 đến tháng 6/1940 để phục vụ cho guồng máy chiến tranh của thực dân Pháp trong Thế chiến thứ II.
LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.
LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.
HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.
LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H
NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.
Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.
TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.
PHONG LÊ(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Tuân 10-7-1910 – 28-7-1987)
NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.
LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.
THÁI DOÃN HIỂU…Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong…
VŨ DUY THÔNG (Thơ - Nghiêm Huyền Vũ, Nxb Trẻ 2000)Khác với bên ngoài, Nghiêm Huyền Vũ trong thơ là người trầm tư, cái trầm tư nhuốm vị triết học.Vây bọc quanh anh là không gian, thứ không gian cô liêu.
TRẦN QUỐC THỰCÍt người chịu đi tìm tiếng nói riêng khi đọc một tập thơ, một chặng thơ của một người. Qua từng chặng thơ, tiếng nói riêng ấy sẽ trở thành một cách thơ riêng biệt. Và đó là điều đáng mừng cho đội ngũ sáng tác.
NGUYỄN THANH TÚ (Phác thảo chân dung nhà văn Nguyễn Bảo)
LGT: Cuốn tiển thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê vừa xuất bản được xem là tác phẩm thành công nhất của ông, cũng là cuốn tiểu thuyết viết kỹ lưỡng nhất, lâu nhất. Cuốn tiểu thuyết này hiện nay nằm trong danh sách những cuốn vào chung khảo cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam. Sông Hương xin giới thiệu những ý kiến nhận định rất chân thành của Giáo sư Trần Đình Sử, nhà văn Ma Văn Kháng và nhà nghiên cứu phê bình Từ Sơn.