Với quan niệm tiểu thuyết lịch sử trước hết là tiểu thuyết, họ đã rất chú trọng đến việc xử lý ngôn ngữ. Người viết đã kết hợp khéo léo tiếng nói của một thời đã qua và tâm lý của người đọc thời hiện tại. Mỗi trang viết của họ thực sự tạo nên sức hút mạnh mẽ bởi sự biến ảo kì diệu của ngôn ngữ. Đọc tiểu thuyết lịch sử hôm nay người đọc như vừa được sống lại không khí của từng sự kiện lịch sử xa xưa, vừa cảm thấy gần gũi, thân quen như chính cuộc sống này. Qua các tiểu thuyết lịch sử viết sau năm 1975 được dư luận đánh giá cao, chúng tôi rút ra một số đặc điểm chính về ngôn ngữ như sau.
1. Lớp ngôn ngữ quan phương, cổ kính
Tiểu thuyết lịch sử là những tác phẩm lấy các sự kiện, biến cố, nhân vật lịch sử làm đề tài, cảm hứng sáng tạo. Đó là những sự việc, con người của một thời đã qua, cách chúng ta hàng thế kỉ. Nhiệm vụ của nhà văn là phải phục dựng lại được không khí của thời đại đó, phân biệt con người hôm qua với con người hôm nay. Bởi vậy, lớp ngôn ngữ quan phương, cổ kính không thể thiếu trong bất cứ tiểu thuyết lịch sử nào. Lớp ngôn ngữ này được sử dụng trong cả lời của nhân vật và lời của người kể chuyện. Câu chuyện trong các tiểu thuyết lịch sử thường là về một vương triều nào đó, gắn với những ông vua, bà hoàng cụ thể. Nghĩa là các sự kiện và con người trong tiểu thuyết lịch sử hầu hết đều liên quan đến đời sống cung đình. Vì vậy nên ngôn ngữ cung đình, quan phương được sử dụng với tần số lớn. Mỗi nhân vật trong các tác phẩm đều gắn với một chức phận, một triều đại nhất định. Người viết tiểu thuyết lịch sử phải giúp người đọc nhận biết được đặc điểm ngôn ngữ, tâm lý của con người thời đại đó. Từ vua đến quan đều phải giao tiếp với nhau bằng một thứ ngôn ngữ mang tính quy phạm, tương xứng với địa vị của mỗi người. Dù là một ông già gần đất xa trời hay là một đứa trẻ lên ba đã lên ngôi vua đều xưng là "trẫm", "ta" một cách rất trịnh trọng. Còn những kẻ bề dưới khi xưng hô với bề trên đều phải xưng là thần, khi nói phải "xin", "tâu" rất cung kính. Lối ăn nói quy phạm ấy ngấm cả vào trong đời sống riêng tư nhất. Trần Thuận Tôn và Hồ Nguyên Trừng (tiểu thuyết Hồ Quý Ly) ngoài quan hệ vua tôi họ còn có quan hệ họ hàng (Thuận Tôn là em rể của Nguyên Trừng), và là những người bạn rất thân. Thế nhưng trong cách xưng hô họ vẫn giữ trọn đạo vua tôi nghiêm ngặt. Thuận Tôn nói với Nguyên Trừng: "Khanh vẫn đắm mình trong rượu ư?". Nguyên Trừng đáp: "Hạ thần bất kính. Mong bệ hạ tha lỗi nhưng kẻ tiểu thần này không thể không say được". Thuận Tôn cười nhếch mép trả lời: "Cũng như ta chứ sao? Thật không thể không đi tu được" [5, tr.450]. Vua Thần Tông (kiếp sau của Từ Lộ) trong tiểu thuyết Giàn thiêu của Võ Thị Hảo khi gặp sư bà động Trầm đã có những linh cảm kì lạ: "Đôi mắt ấy hắt cái ánh sáng kì lạ khiến ngài ngự rùng mình và trái tim như tụt rơi đâu mất. Một mùi da thịt thơm ngát như mùi sen chớm nở thoảng lên khiến Thần Tông sững sờ" [4, tr.274], "Dáng vẻ lạ lẫm và cái mùi hương thoảng lên từ da thịt của người đàn bà luống tuổi đã tự giam mình trong cửa Phật lâu ngày khiến ngài cứ thấy da diết nhớ. Đang đứng trước mặt bà mà lại nhớ. Dường như cái giấc mơ cố hữu đang trở lại" [4, tr. 275]. Dù đang trong cảm giác đê mê với những rung cảm kì lạ nhưng khi nói với sư bà, Thần Tông vẫn giữ lối nói khuôn phép: "Càng nhiều bóng áo cà sa, vương quốc của ta càng bớt những kẻ ác phạm. Ta đang mong bóng áo cà sa của nhà Phật nhuộm mọi hang cùng ngõ hẻm" [4, tr.282], "Sư bà… không đựơc lộng ngôn mạn thượng" [4, tr.283], "Sư bà! Nên nhớ rằng, bà dẫu đã dâng mình cho Phật đạo, nhưng bà sống ngày nào thì vẫn ăn ở, đi lại trên đất của Thiên tử. Nếu bà quá ngang ngược, ta sẽ không dung tha" [4, tr.289].
Viết về một thời quá khứ xa xưa của dân tộc, các tác giả tiểu thuyết lịch sử sau 1975 đã tạo nên một không khí chân thực cho tác phẩm qua việc ghi lại các mốc thời gian lịch sử. Các sự kiện lịch sử được được đánh dấu bằng những mốc thời gian chính xác như: Năm Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỉ Dậu, Canh Tuất, Mậu Thìn (Hồ Quý Ly); "Đinh Mùi tháng Chạp. Ngày ất Dậu, giờ Dần", "Hội Tường, đại khánh năm thứ nhất", "Mậu Thìn, Quảng Hựu năm thứ tư", "Bính Thìn, Thiên Chương Bảo Tự năm thứ tư", "Nhâm Tý, Thái Nình năm thứ nhất", "Thuận Thiên năm thứ hai", "tháng 10 Mậu Ngọ, Thiệu Ninh năm thứ nhất', "Năm Hội Phong thứ 7" ("Giàn thiêu"). Trong "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác là: "Đầu năm Mậu Tý", "Năm Tân Mão (1771)", "Tháng 3 năm Bính Thân (1776), Nhạc xưng vương", "Tết Đinh Dậu (1777)", "Từ tháng 4 đến tháng 6 năm Đinh Dậu (1777)", "đầu năm Mậu Tuất (1778)", "Mùa đông năm Nhâm Dần (1782)", "Tháng Giêng năm Quý Mão (1783)", "Tháng 10 năm Giáp Tìn (1784)", "Sáng 10 tháng 7 năm Bính Ngọ ", " ngay sau khi nghe tin quân Thanh xâm lấn Bắc Hà, vua Quang Trung cấp tốc ra lệnh xuất quân ra Bắc ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (1788), ngày 29 ra đến Nghệ An". Trong tiểu thuyết "Mẫu thượng ngàn " của Nguyễn Xuân Khánh, các sự kiện cũng được đánh dấu bằng các mốc thời gian cụ thể: tháng 5 năm 1883, năm 1858, tháng 7 năm 1861, năm 1873 (Quý Dậu), năm Nhâm Ngọ (1882)… Đây là cách viết quen thuộc của sử biên niên. Cách viết nhằm xác nhận tính chân thực của các sự việc, tạo ra sự tin tưởng cao độ nơi người đọc. Cách viết này còn giúp người đọc hình dung cụ thể hiện thực của từng thời kỳ lịch sử. Qua các mốc thời gian sự kiện, từng hành động, tâm lý của con người cũng hiện lên, phơi bày toàn bộ những sóng gió trong đời sống triều chính ở một xã hội phong kiến phương Đông.
Ngôn ngữ quan phương, cổ kính còn được thể hiện trong hệ thống ngôn ngữ mang màu sắc tôn giáo. Do đặc điểm lịch sử riêng, nhiều tôn giáo của nước ngoài đã du nhập vào Việt . Người Việt đã tiếp nhận các tôn giáo đó một cách có chọn lọc, phù hợp với tâm lý, nếp sống của mình. Mỗi triều đại gắn với sự phát triển của những tôn giáo, học thuyết nhất định. Bởi vậy, sử dụng hệ thống thuật ngữ mang màu sắc tôn giáo cũng là một cách tái hiện lại không khí của thời đại đó. Thời Lý ghi nhận sự phát triển của đạo Phật. Bởi vậy, trong tiểu thuyết "Giàn thiêu", nhà văn Võ Thị Hảo đã sử dụng đầy ắp ngôn ngữ Phật giáo. Nhiều chương trong tác phẩm được đặt tên bằng những khái niệm nhà Phật: "Ngược thác oan" (chương VIII), "Niệm xứ" (chương XI), "Đoạ xứ" (chương XII), "Nghiệp chướng" (chương XV), "Hành cước" (chương XVI), "Báo oán" (chương XVII), "Thiền sư" (chương XVIII), "Đầu thai" (chương XX), "Giải thoát" (chương XXI) (9/25 chương). Tiểu thuyết mở đầu bằng lời của Phật nói với các tỳ kheo: "ơ các tỳ kheo! Nếu các người lại để mình mắc vào thuyết ấy, nếu các người ưa thích nó, nếu các người mê luyến nó, gìn giữ nó như một kho bảo vật, nghĩa là các người bị ràng buộc vào nó, thì các người đâu có hiểu rằng giáo lý của ta có khác nào là chiếc bè để đưa qua sông chứ không phải để buộc trói người vào đó " [4, tr.17]. Khắp tác phẩm văng vẳng những lời cầu kinh: "… An ta phạ bà pha, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ bà phà… " [4, tr.20].
"Kính đức Đại bi Quang Thế Âm cho con mau lên thuyền Bát Nhã
Kính đức Đại bi Quang Thế Âm cho con sớm vượt qua bể
Kính đức Đại bi Quang Thế Âm cho con sớm lên cõi Niết Bàn
Kính đức Đại bi Quang Thế Âm cho con mau đến nhà vô vi …" [4, tr.22].
Các nhân vật trong truyện cũng thường nói với nhau bằng ngôn ngữ nhà Phật. Vị Thượng tọa nói với vua Thần Tông: "Mô Phật! Kẻ tu hành này thật lấy làm nhục nhã thấy người đau mà không giúp… " [4, tr.50]. Lời Từ Lộ khấn người cha bị chết oan: "Lạy cha… Kiếp này không phải của con. Con chỉ sống đề trả oán này…! Xin trời cao đất dầy chứng giám" [4, tr.78]. Nhìn thấy sự sa đọa của Thần Tông (kiếp sau của Từ Lộ), sư bà động Trầm (Nhuệ Anh) thốt lên đau đớn: "Trong khi ta chưa trả nợ xong kiếp này, thì chàng đã kịp trải hai kiếp để hành hạ, vò xé ta bằng những nỗi đau khổ của chàng, bằng những bước đi thập thững và dại dột của chàng " [4, tr.319]. Đạo Phật hướng con người tới lối sống thoát tục, rũ bỏ những dục vọng tầm thường, sống từ bi hỉ xả. Những con người trong tác phẩm thấm nhuần triết lý nhân đạo của đạo Phật, sùng bái đạo Phật nhưng ngọn lửa dục vọng vẫn rừng rực cháy trong họ. Những toan tính, tham vọng cá nhân đã khiến họ lún sâu vào tội ác. Họ tụng kinh, niệm Phật như để che giấu những tội lỗi mà họ đã gây ra.
Tiểu thuyết "Hồ Quý Ly" của Nguyễn Xuân Khánh kể về giai đoạn lịch sử thế kỷ XIV - XV. Đó là thời kỳ cực thịnh của Nho học. Nho giáo trở thành quốc giáo, chi phối trong từng lời nói, nếp nghĩ của con người. Trong những lời tấu trình, thậm chí cả khi trò chuyện các nhân vật đều viện dẫn sách vở, kinh điển Nho gia. Trong hội thề Đồng Cổ, vua Nghệ Tôn nói với các cận thần: "Kẻ làm tôi bất trung thì thần linh tru diệt" [5, tr.22]. Hồ Quý Ly nói với con trai "Người quân tử cũng phải biết chịu khuất thân, miễn chí lớn cuối cùng đạt được" [5, tr.54].
Tiểu thuyết "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác viết về thời đại Tây Sơn. Đó là thời kỳ phong trào nông dân khởi nghĩa diễn ra rầm rộ, Nho học bước vào buổi cuối mùa. Lớp ngôn ngữ cung đình, Nho - Phật do vậy chỉ còn rơi rớt nơi cung vua, phủ chúa điêu tàn, rệu rã và trong lời những nhà nho thất thế.
Tiểu thuyết "Mẫu thượng ngàn" của Nguyễn Xuân Khánh tái hiện lại bức tranh xã hội ViệtNam những năm cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. Đó là thời kì Thiên chúa giáo bắt đầu len lỏi vào đời sống tinh thần của người dân Việt Nam, trong khi Nho học tuy bước vào buổi cuối mùa nhưng vẫn chưa lụi tắt, đạo Phật vẫn sống trong đức tin của người dân Việt. Trước sự xâm thực của Thiên chúa giáo với âm mưu đồng hoá về văn hoá của thực dân Pháp, người dân Việt đã lựa chọn cho mình một cách ứng xử mềm dẻo. Họ tiếp nhận những phần tốt đẹp của các tôn giáo, đồng thời vẫn thờ đạo riêng của mình: Đạo Mẫu, thờ Đất Mẹ thiêng liêng. ở thời buổi giao thoa giữa các tôn giáo ấy, ngôn ngữ cũng có điểm đặc biệt. Ngôn ngữ của cụ đồ Tiết, cụ cử Khiêm, phó bảng Vũ Duy Tân mang khẩu khí của những nhà Nho học. Cụ cử Khiêm nói với học trò: "Việc có thị có phi. Muốn xét đoán việc, phải lấy tấm lòng son với xã tắc làm chuẩn mực. Cái gì trái với điều ấy thì không làm " [6, tr.285]. Với những người theo đạo Thiên chúa, lời nói của họ luôn hướng đến Chúa như tìm đến sức mạnh, niềm tin. Phần lớn người dân Việt thờ đạo riêng của mình - Đạo Mẫu tạo nên thứ ngôn ngữ riêng bao phủ khắp tác phẩm. Người già kể cho con trẻ nghe, con trẻ lại truyền cho nhau những câu chuyện về "Thánh Mẫu", "giá Mẫu", "ốp đồng", "cô hầu", "hát chầu văn"… Mặc dù cùng lúc tiếp nhận nhiều tôn giáo nhưng người Việt đã nhận ra và hành xử theo những điều tốt đẹp mà các tôn giáo mang lại. Ngôn ngữ của người dân chủ yếu là ngôn ngữ khuyến thiện. Cha Colombert nói với bà Vũ Thị Ngát: "Đạo thánh hiền cũng có những điều giống như đạo của Chúa. Ví dụ đạo Khổng dạy con người nhân nghĩa, còn đạo Thiên chúa thì lấy tình thương yêu con người làm căn bản… " [6, tr.302]. Bà Tổ cô tâm sự với cô Mùi: "Đạo nào cũng thế cả thôi. Đạo Giêsu cũng như đạo Mẫu. Tất cả đều chỉ là khuyến thiện" [6, tr.696]. Lớp ngôn ngữ tôn giáo này đã cho ta thấy bức tranh văn hoá nhiều màu sắc của Việt trong buổi giao thời. Và điều quan trọng hơn hệ thống ngôn ngữ này còn cho thấy cách ứng xử thông minh của người Việt trước nguy cơ bị đồng hoá về văn hoá để có thể đứng vững, trường tồn.
Như vậy, lớp ngôn ngữ quan phương, cổ kính có vai trò rất quan trọng trong các tiểu thuyết lịch sử. Lớp ngôn ngữ này mang lại hơi thở thời đại cho các tiểu thuyết lịch sử, thuyết phục người đọc bằng những chứng cứ cụ thể, chi tiết. Đồng thời nó còn là phương tiện khám phá đời sống bên trong của các vương triều và trong tâm hồn con người.
2. Lớp ngôn ngữ đời sống giản dị, nhiều màu sắc
Nếu như chỉ sử dụng lớp ngôn ngữ quan phương, cổ kính tiểu thuyết lịch sử sau 1975 sẽ chẳng khác gì một cuốn sử biên niên, thuần tuý ghi chép, mô tả lại các sự việc. Và như thế, mỗi cuốn tiểu thuyết lịch sử sẽ giống như một cuốn sách giáo khoa lịch sử, chứa đầy những chi tiết khô khan, kinh viện. Người đọc chỉ thấy được lớp vàng son bề ngoài của nó mà không hiểu hết được bản chất bên trong. Việc đưa ngôn ngữ đời sống vào trong tác phẩm có thể xem là một hành động phá cách, vượt chuẩn của các nhà văn viết về đề tài lịch sử sau 1975. Lớp ngôn ngữ quan phương, cổ kính tạo cho người đọc niềm tin vào sự có thật của các chi tiết được kể, còn lớp ngôn ngữ hiện đại, trần trụi lại giúp người đọc được sống trong không khí thật của câu chuyện, cảm nhận được sự gần gũi, thân quen trong từng lời kể, làm sống dậy "những xác chết biên niên sử". Điều quan trọng hơn là, với lớp ngôn ngữ này, người viết có điều kiện đi sâu khám phá thế giới tâm hồn sâu kín, đầy ngõ ngách của con người. Toàn bộ bản chất của con người theo lời nói được bộc lộ ra. Từ đây, những "nghi vấn" lịch sử cũng được giải thích một cách thoả đáng, thuyết phục hơn.
Trong tiểu thuyết "Sông Côn mùa lũ", lớp ngôn ngữ đời thường chiếm tuyệt đối. Các nhân vật chính trong tác phẩm đều xuất phát từ tầng lớp thường dân áo vải. Nguyễn Nhạc trước khi trở thành vua Thái Đức đã phải xoay sở đủ nghề, từ khai khẩn đất hoang, buôn nguồn đến làm chức đốc thuế để nuôi em và tạo dựng sự nghiệp. Vua Quang Trung trước đó cũng chỉ là một trí thức bình dân. Bởi vậy, cách nói năng của họ rất tự nhiên, thoải mái, thậm chí suồng sã, không khác gì dân thường. Vua Thái Đức khi nói chuyện với Ngọc Hân - công chúa của nhà Lê, phu nhân của Nguyễn Huệ, đã dùng những từ ngữ rất thân mật như những người trong gia đình thường dân nói với nhau: "Thím cầm chân được chú Tám nhà này là giỏi rồi, là trở thành ân nhân của ta rồi. Chỉ trông cái bộ bẽn lẽn của chú ta cũng biết ngựa hoang đã bị đóng cương rồi đấy!" [2]. Thế nhưng, khi giận dữ, toàn bộ bản chất của một gã buôn nguồn nhiều mánh lới trong Nguyễn Nhạc lại tuôn qua từng lời nói.
Khi giận Nguyễn Huệ đã tự ý kéo quân ra Bắc, ông chửi mắng bằng những lời thậm tệ: "Bầy "ngựa non háu đá" mê đường trường không chịu về chuồng. Các người đoán đúng lắm. Mỗi đứa bịa ra một cớ để ở lì ngoài đó. Toàn là một lũ vong ân bội nghĩa" [2], "Cút đi. Về bảo cái bọn sai tụi mày vào đây là ta đã xé tờ biểu như vậy đó. Quân vô ơn bội nghĩa. Nếu không có ta gầy dựng thì cả lũ bây giờ quá lắm là những tên buôn trầu, những thằng mót củi, làm thuê chứ đâu được ngồi sập vàng ăn mâm bạc " [2]. Nguyễn Huệ là người điềm tĩnh, quyết đoán, từ khi mới lớn lên đã được học chữ nghĩa nho gia với thầy giáo Hiến. Bởi vậy lời nói của ông bao giờ cũng đĩnh đạc, nghiêm túc. Ngay cả khi nói những lời bông đùa, hóm hỉnh, lời nói của ông cũng không có sắc thái cợt nhã thái quá: "Vì dẹp loạn mà ra, rồi lấy vợ mà về, trẻ con nó cười cho thí sao? Nhưng ta mới chỉ quen gái Nam hà, chưa biết con gái Bắc hà. Nay cũng nên thử xem một chuyến xem có tốt không?" [2]. Khi đứng trước An - người con gái mình yêu, chưa bao giờ Huệ dám nói chuyện tự nhiên với cô. Khác với Huệ, Lợi là người ít học, nhưng bao nhiêu năm theo biện Nhạc đi buôn nguồn khiến Lợi trở thành một kẻ lanh lợi, ranh mãnh. Lợi biết cách nói chuyện để vừa lòng mọi người. Chính ưu điểm này của anh ta đã khiến An nhiều lúc phải phân vân lựa chọn giữa Huệ và Lợi. Tác phẩm thành công ở mạch truyện thế sự. Nhiều nhân vật không có trong sử sách như An, Lãng, ông giáo Hiến… cũng trở thành những nhân vật chính của truyện. Tiếng nói của những con người đời thường này làm cho câu chuyện càng gần gũi, thân quen với người đọc thế hệ sau.
Trong tiểu thuyết "Hồ Quý Ly", khoảng cách sử thi của sự kiện lịch sử và nhân vật đã được thu hẹp nhờ lớp ngôn ngữ đời thường tự nhiên, sống động. Hồ Quý Ly là một kẻ quyền biến, cả gan, dám nghĩ dám làm. Trong những lời tranh luận về chính sự, thời cuộc, ông luôn bộc lộ cá tính ngang tàng, bướng bỉnh, quyết đoán. Khi giận dữ ông dùng cả những lời nói báng bổ: "
Với tiểu thuyết "Giàn thiêu", nhà văn Võ Thị Hảo đã đặt cái tốt - cái xấu ở những thái cực đối lập nhau. Ngôn ngữ diễn đạt theo đó cũng được đẩy tới những giới hạn của nó. Những trang viết về tình yêu, về cái đẹp được tạo nên bởi ngôn ngữ bóng bẩy, giàu chất thơ. Cảm giác về tình yêu đam mê, đắm đuối được diễn tả bằng ngôn ngữ hiện đại, bay bổng: "Những giọt mưa dội xuống thân thể lúc này lại dịu dàng êm ái, mỗi giọt mưa chạm xuống như mang theo một hơi thở nồng nàn sưởi ấm cơ thể nàng. Những ngón tay Nhuệ Anh níu chặt bên vai Từ. Nàng run rẩy áp cặp môi trinh nữ lên vòng ngực trần nóng hổi trong mưa của chàng. Cái mùi đàn ông lạ lẫm, đắng ngắt, ngầy ngậy, bạo liệt như đá rừng rực toả hơi nóng dưới ánh mặt trời pha lẫn hơi mưa tươi tắn và tinh khiết khiến nàng ngây ngất chợt như lả đi, chợt như lạc vào cõi phiêu bồng" [4, tr.211]. Khi trong lòng chất chứa mỗi hận thù, những dục vọng, ngôn ngữ trở nên sắc nhọn, trần trụi. Lãnh cung, nơi ghi dấu tội ác man rợ do con người tham muốn quyền lực và lòng đố kị gây ra được miêu tả đầy rùng rợn: "ở dưới đáy hầm mộ là một đàn chuột hăm he cắn nát chân tay mặt mũi nàng vừa nãy. Khi tiếng thì thào vừa dứt, những bộ xương cẳng tay cẳng chân, đầu lâu từ từ dựng dậy nối nhau chuyển động xếp lại trật tự răm rắp thành hình người. Từ miệng của những con chuột đang ngủ, một dòng da thịt chảy ra, chắp vào những bộ xương đó. Có bẩy mươi bẩy bộ xương". [4, tr.229].
Tiểu thuyết "Mẫu thượng ngàn" không còn kiểu ngôn ngữ cổ kính, quy phạm. Toàn bộ tác phẩm là thứ ngôn ngữ tự nhiên như lời nói hàng ngày. Cách nói của phương Tây du nhập và được lớp trẻ sử dụng: "Toa về đã lâu chưa? Sao chẳng đến nhà mình? Moa tưởng toa còn lâu mới về?" [6, tr.454].
Lớp ngôn ngữ đời sống giản dị, sinh động ngày càng chiếm ưu thế trong tiểu thuyết lịch sử sau 1975. Lớp ngôn ngữ này đã rút ngắn khoảng cách sử thi, giúp người đọc khám phá lịch sử ở bề sâu, bề xa của nó. Lịch sử không còn là vật để thờ cúng mà chính là cuộc sống sinh động, tươi nguyên.
3. Lớp ngôn ngữ mang màu sắc triết luận Tác phẩm văn học suy cho cùng là "nơi kí thác, nơi khẳng định quan điểm nhân sinh, lý tưởng thẩm mỹ" [3, tr.196] của nhà văn. Lấy đề tài lịch sử làm cảm hứng sáng tạo các nhà văn sau 1975 không chỉ dừng lại ở việc minh hoạ lại bức tranh lịch sử dân tộc như các nhà viết sử đã làm. Họ muốn mượn lịch sử làm phương tiện chuyển tải những quan điểm của mình về quá khứ và hiện tại. Điều này đã tạo ra hình thức ngôn ngữ mang màu sắc triết luận cho tác phẩm. Lớp ngôn ngữ này chủ yếu xuất hiện trong lời đối thoại và độc thoại nội tâm của nhân vật. Nhân vật Nguyễn Huệ trong "Sông Côn mùa lũ" thường có những cuộc đối thoại thẳng thắn với thầy giáo Hiến để tìm ra chân lý. Là học trò của ông giáo nhưng Huệ là một chàng trai trẻ mang đầy những khát vọng lớn lao. Anh thường đặt ra cho thầy những câu hỏi hóc búa như: "thế nào mới là người nghĩa hiệp?", "thế nào là đói?"… Qua những lần trao đổi ấy đã bộc lộ những suy ngẫm của Nguyễn Huệ về cuộc đời, con người và ước mơ làm nên những cái mới tốt đẹp hơn cuộc sống trong nhãn quan của thầy Hiến. Tác phẩm có nhiều đoạn ghi lại những cảm nhận sâu sắc về chiến tranh. Phụ nữ là người có cảm nhận rõ nhất về sự mất mát do chiến tranh gây ra. Trong khi những người lính rộn rã, vui mừng chuẩn bị cho những cuộc tấn công mới thì những người đàn bà lại âm thầm đau khổ bởi họ sắp phải tiễn chồng, tiễn con đi đến chỗ chết. Có lẽ chỉ những người mang nặng đẻ đau mới cảm nhận hết nỗi đau này: “Em không phải là đàn bà, không mang nặng đẻ đau nên không thể hiểu được tấm lòng của người mẹ. Khổ sở nuôi con khôn lớn, rồi sắm sửa quần áo, gạo thóc, đưa nó đi, đi đâu? Đưa đến chỗ hòn tên mũi đạn để chết. Bao nhiêu công phu đổ xuống sông xuống biển, không đau đớn sao được!...Tự nhiên xông ra đâm chém nhau, để ruộng nương lại cho đàn bà cày cấy, tưới mồ hôi kiếm cơm nuôi lũ nhỏ lớn lên để tiễn chúng ra trận chuyến sau, chuyến sau nữa ..." [2].
Chiến tranh bao giờ cũng khốc liệt và gây ám ảnh nhất đối với con người. Ngay cả với những cuộc chiến giương cao ngọn cờ chính nghĩa, để giải phóng loài người, người dân luôn phải chịu đau khổ, phải hy sinh những người chồng, người con vô cùng yêu dấu của mình. Lẽ ra những người như An, Thọ Hương sẽ được sống thanh thản, yên ổn nhưng thời cuộc đã khiến họ long đong, khốn khổ. Thọ Hương, người con gái yêu của Nguyễn Nhạc cũng bị sử dụng như một con bài trong ván bài chính trị của vua cha. Người cha lạnh lùng ép gả cô cho hoàng tôn Dương để nhằm trấn an lòng dân. Cô gái 18 tuổi bất đắc dĩ phải trở thành vợ của một kẻ cô chưa hề quen biết. Cô phải sống bên một người chồng hờ, mang tiếng là đàn bà mà chưa một lần được làm đàn bà. Chưa đầy 20 tuổi, hoàng tôn bỏ đi, cô trở thành người đàn bà goá bụa. Thọ Hương chua chát tự nhận mình “Em chẳng khác nào viên đá lót đường cho người ta dẫm lên trên. Thân em bị chà đạp, đau xót, lấm láp mà không ai thương xót..." [2]. Đó dường như đã là định mệnh chung của những người phụ nữ trong thời chiến. Tác phẩm còn thể hiện những quan niệm riêng về lịch sử thông qua những từ ngữ giàu hình ảnh. Người viết sử không chỉ ghi lại những điều quan trọng, những biến cố to lớn trong lịch sử bởi “Lọc bỏ không thương tiếc các xúc động riêng tư, sổ toẹt những chuyện bên lề, chỉ giữ lại cái sườn biên niên của lịch sử, làm như vậy có khác nào lóc bỏ hết da thịt để lịch sử chỉ còn là một mớ xương xẩu ghê tởm đủ mùi tanh hôi cuốn lũ ruồi nhặng và làm cái cớ cho bọn bán thịt chuyên nghiệp vênh váo" [2].
Nhiều nhân vật trong tiểu thuyết "Hồ Quý Ly" thường sống trong dòng độc thoại nội tâm. Đó chính là lúc họ đối diện với chính mình, bày tỏ những suy nghĩ thật của mình về cuộc đời và con người. Nhân vật Hồ Nguyên Trừng cảm nhận cung đình là nơi đầy phức tạp và bất ổn: "Điều quan trọng mà tôi nhận ra ở cái sân khấu quyền quý, hoa lệ này, đó là sự giành giật, sự vật lộn không khoan nhượng, nó thường hằng rộng khắp, một nụ cười, một vái chào, một khoé mắt cũng phải coi chừng" [5, tr.58]. Ngoài ra nhà văn còn sử dụng nhiều câu hỏi tự vấn vừa để nhân vật tự phơi bày dòng ý thức của mình, vừa tạo điều kiện cho người đọc tự suy ngẫm, kiến giải: "Mâu thuẫn đến thế, sự giằng xé đến thế vậy mà ông lại muốn ra đi một cách nhẹ nhàng sao? Ông muốn mặc đồ lụa vàng; lụa dù nhẹ nhưng cất sao nổi gánh nặng trong lòng ông. Trong tâm tưởng, chợt nghe một tiếng ai đó thét lên : "Ngươi làm đổ cơ nghiệp nhà Trần" "Không!" "Chẳng phải tại tôi. Đó là vận nước!" "Tội lỗi do người quá nhân từ.""Sách chẳng nói chữ nhân là cái đức đầu tiên của ông vua sáng đó sao?" [5, tr.169].
Lớp ngôn ngữ triết luận trong các tiểu thuyết lịch sử sau 1975 không phải là những lời giảng giải khô cứng, khuôn mẫu. Lớp ngôn ngữ này được nhà văn sử dụng thông qua những từ ngữ giàu tính hình tượng và kết hợp nhiều hình thức linh hoạt như: đối thoại, độc thoại, câu hỏi nghi vấn… làm cho cảm hứng triết luận được bộc lộ một cách tự nhiên, hấp dẫn. Lớp ngôn ngữ mang màu sắc triết luận đã giúp người viết có thể bộc lộ một cách kín đáo những suy ngẫm của mình về các vấn đề của quá khứ và hiện tại. Đồng thời lớp ngôn ngữ này cũng tạo ra những khoảng trống để người đọc cùng suy ngẫm, lý giải các vấn đề.
Sự kết hợp đa dạng các hình thức ngôn ngữ đã đem lại sự khởi sắc cho tiểu thuyết lịch sử sau 1975. Sự đổi mới trong ngôn ngữ tiểu thuyết lịch sử sau 1975 gắn với nhu cầu dân chủ hoá về ngôn ngữ, về nghệ thuật, nhu cầu bình đẳng, khách quan với lịch sử. Sự đổi mới này cho thấy các nhà văn sau 1975 đã không ngừng bứt phá làm mới mình, mạnh dạn thể nghiệm những hướng đi mới. Ban đầu đã có nhiều ý kiến không thống nhất về sự thay đổi táo báo này. Nhưng thời gian đã chứng minh những thể nghiệm trong ngôn ngữ tiểu thuyết lịch sử sau 1975 là những nỗ lực đáng trân trọng của người viết và hứa hẹn nhiều thành công.
ThS. Ngô Thị Quỳnh Nga ( hoinhavanvietnam.vn)
Tài liệu tham khảo:
1. Trương Đăng Dung, Tiểu thuyết lịch sử trong quan niệm của Lucacs, Tạp chí văn học, số 5, 1994.
2. Nguyễn Mộng Giác, Sông Côn mùa lũ, http//:dactrung.net
3. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1992.
4. Võ Thị Hảo, Giàn thiêu, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội, 2003.
5. Nguyễn Xuân Khánh, Hồ Quý Ly, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 2002.
6. Nguyễn Xuân Khánh, Mẫu thượng ngàn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 2006.
|
TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.
NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...
BẢO CHI (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...
ĐỖ LAI THÚY Văn là người (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.
ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.
TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.
TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?
HOÀNG NGỌC HIẾN ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...
THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.
TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.
ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.
ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…
HỒ THẾ HÀ Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.
JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...
PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...
HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.
HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.
NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.