Sự đan cài các lớp ngôn ngữ trong tiểu thuyết lịch sử sau 1975

09:53 09/02/2010
Ngôn ngữ văn học luôn mang dấu ấn thời đại lịch sử của nó. Đồng thời, thông qua ngôn ngữ tác phẩm người đọc có thể đánh giá được khả năng sáng tạo và phong cách sáng tác của người nghệ sĩ. Văn học Việt Nam từ sau 1975, đặc biệt là sau Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã có những đổi mới mang tính đột phá trên mọi phương diện, trong đó có ngôn ngữ. Viết về đề tài lịch sử trong bối cảnh mới, các nhà văn sau 1975 không chịu núp mình dưới lớp vỏ ngôn ngữ cũ kĩ, khuôn sáo như trước.

Với quan niệm tiểu thuyết lịch sử trước hết là tiểu thuyết, họ đã rất chú trọng đến việc xử lý ngôn ngữ. Người viết đã kết hợp khéo léo tiếng nói của một thời đã qua và tâm lý của người đọc thời hiện tại. Mỗi trang viết của họ thực sự tạo nên sức hút mạnh mẽ bởi sự biến ảo kì diệu của ngôn ngữ. Đọc tiểu thuyết lịch sử hôm nay người đọc như vừa được sống lại không khí của từng sự kiện lịch sử xa xưa, vừa cảm thấy gần gũi, thân quen như chính cuộc sống này. Qua các tiểu thuyết lịch sử viết sau năm 1975 được dư luận đánh giá cao, chúng tôi rút ra một số đặc điểm chính về ngôn ngữ như sau.

1. Lớp ngôn ngữ quan phương, cổ kính

Tiểu thuyết lịch sử là những tác phẩm lấy các sự kiện, biến cố, nhân vật lịch sử làm đề tài, cảm hứng sáng tạo. Đó là những sự việc, con người của một thời đã qua, cách chúng ta hàng thế kỉ. Nhiệm vụ của nhà văn là phải phục dựng lại được không khí của thời đại đó, phân biệt con người hôm qua với con người hôm nay. Bởi vậy, lớp ngôn ngữ quan phương, cổ kính không thể thiếu trong bất cứ tiểu thuyết lịch sử nào. Lớp ngôn ngữ này được sử dụng trong cả lời của nhân vật và lời của người kể chuyện. Câu chuyện trong các tiểu thuyết lịch sử thường là về một vương triều nào đó, gắn với những ông vua, bà hoàng cụ thể. Nghĩa là các sự kiện và con người trong tiểu thuyết lịch sử hầu hết đều liên quan đến đời sống cung đình. Vì vậy nên ngôn ngữ cung đình, quan phương được sử dụng với tần số lớn. Mỗi nhân vật trong các tác phẩm đều gắn với một chức phận, một triều đại nhất định. Người viết tiểu thuyết lịch sử phải giúp người đọc nhận biết được đặc điểm ngôn ngữ, tâm lý của con người thời đại đó. Từ vua đến quan đều phải giao tiếp với nhau bằng một thứ ngôn ngữ mang tính quy phạm, tương xứng với địa vị của mỗi người. Dù là một ông già gần đất xa trời hay là một đứa trẻ lên ba đã lên ngôi vua đều xưng là "trẫm", "ta" một cách rất trịnh trọng. Còn những kẻ bề dưới khi xưng hô với bề trên đều phải xưng là thần, khi nói phải "xin", "tâu" rất cung kính. Lối ăn nói quy phạm ấy ngấm cả vào trong đời sống riêng tư nhất. Trần Thuận Tôn và Hồ Nguyên Trừng (tiểu thuyết Hồ Quý Ly) ngoài quan hệ vua tôi họ còn có quan hệ họ hàng (Thuận Tôn là em rể của Nguyên Trừng), và là những người bạn rất thân. Thế nhưng trong cách xưng hô họ vẫn giữ trọn đạo vua tôi nghiêm ngặt. Thuận Tôn nói với Nguyên Trừng: "Khanh vẫn đắm mình trong rượu ư?". Nguyên Trừng đáp: "Hạ thần bất kính. Mong bệ hạ tha lỗi nhưng kẻ tiểu thần này không thể không say được". Thuận Tôn cười nhếch mép trả lời: "Cũng như ta chứ sao? Thật không thể không đi tu được" [5, tr.450]. Vua Thần Tông (kiếp sau của Từ Lộ) trong tiểu thuyết Giàn thiêu của Võ Thị Hảo khi gặp sư bà động Trầm đã có những linh cảm kì lạ: "Đôi mắt ấy hắt cái ánh sáng kì lạ khiến ngài ngự rùng mình và trái tim như tụt rơi đâu mất. Một mùi da thịt thơm ngát như mùi sen chớm nở thoảng lên khiến Thần Tông sững sờ" [4, tr.274], "Dáng vẻ lạ lẫm và cái mùi hương thoảng lên từ da thịt của người đàn bà luống tuổi đã tự giam mình trong cửa Phật lâu ngày khiến ngài cứ thấy da diết nhớ. Đang đứng trước mặt bà mà lại nhớ. Dường như cái giấc mơ cố hữu đang trở lại" [4, tr. 275]. Dù đang trong cảm giác đê mê với những rung cảm kì lạ nhưng khi nói với sư bà, Thần Tông vẫn giữ lối nói khuôn phép: "Càng nhiều bóng áo cà sa, vương quốc của ta càng bớt những kẻ ác phạm. Ta đang mong bóng áo cà sa của nhà Phật nhuộm mọi hang cùng ngõ hẻm" [4, tr.282], "Sư bà… không đựơc lộng ngôn mạn thượng" [4, tr.283], "Sư bà! Nên nhớ rằng, bà dẫu đã dâng mình cho Phật đạo, nhưng bà sống ngày nào thì vẫn ăn ở, đi lại trên đất của Thiên tử. Nếu bà quá ngang ngược, ta sẽ không dung tha" [4, tr.289].

Viết về một thời quá khứ xa xưa của dân tộc, các tác giả tiểu thuyết lịch sử sau 1975 đã tạo nên một không khí chân thực cho tác phẩm qua việc ghi lại các mốc thời gian lịch sử. Các sự kiện lịch sử được được đánh dấu bằng những mốc thời gian chính xác như: Năm Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỉ Dậu, Canh Tuất, Mậu Thìn (Hồ Quý Ly); "Đinh Mùi tháng Chạp. Ngày ất Dậu, giờ Dần", "Hội Tường, đại khánh năm thứ nhất", "Mậu Thìn, Quảng Hựu năm thứ tư", "Bính Thìn, Thiên Chương Bảo Tự năm thứ tư", "Nhâm Tý, Thái Nình năm thứ nhất", "Thuận Thiên năm thứ hai", "tháng 10 Mậu Ngọ, Thiệu Ninh năm thứ nhất', "Năm Hội Phong thứ 7" ("Giàn thiêu"). Trong "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác là: "Đầu năm Mậu Tý", "Năm Tân Mão (1771)", "Tháng 3 năm Bính Thân (1776), Nhạc xưng vương", "Tết Đinh Dậu (1777)", "Từ tháng 4 đến tháng 6 năm Đinh Dậu (1777)", "đầu năm Mậu Tuất (1778)", "Mùa đông năm Nhâm Dần (1782)", "Tháng Giêng năm Quý Mão (1783)", "Tháng 10 năm Giáp Tìn (1784)", "Sáng 10 tháng 7 năm Bính Ngọ ", " ngay sau khi nghe tin quân Thanh xâm lấn Bắc Hà, vua Quang Trung cấp tốc ra lệnh xuất quân ra Bắc ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (1788), ngày 29 ra đến Nghệ An". Trong tiểu thuyết "Mẫu thượng ngàn " của Nguyễn Xuân Khánh, các sự kiện cũng được đánh dấu bằng các mốc thời gian cụ thể: tháng 5 năm 1883, năm 1858, tháng 7 năm 1861, năm 1873 (Quý Dậu), năm Nhâm Ngọ (1882)… Đây là cách viết quen thuộc của sử biên niên. Cách viết nhằm xác nhận tính chân thực của các sự việc, tạo ra sự tin tưởng cao độ nơi người đọc. Cách viết này còn giúp người đọc hình dung cụ thể hiện thực của từng thời kỳ lịch sử. Qua các mốc thời gian sự kiện, từng hành động, tâm lý của con người cũng hiện lên, phơi bày toàn bộ những sóng gió trong đời sống triều chính  ở một xã hội phong kiến phương Đông.

Ngôn ngữ quan phương, cổ kính còn được thể hiện trong hệ thống ngôn ngữ mang màu sắc tôn giáo. Do đặc điểm lịch sử riêng, nhiều tôn giáo của nước ngoài đã du nhập vào Việt . Người Việt đã tiếp nhận các tôn giáo đó một cách có chọn lọc, phù hợp với tâm lý, nếp sống của mình. Mỗi triều đại gắn với sự phát triển của những tôn giáo, học thuyết nhất định. Bởi vậy, sử dụng hệ thống thuật ngữ mang màu sắc tôn giáo cũng là một cách tái hiện lại không khí của thời đại đó. Thời Lý ghi nhận sự phát triển của đạo Phật. Bởi vậy, trong tiểu thuyết "Giàn thiêu", nhà văn Võ Thị Hảo đã sử dụng đầy ắp ngôn ngữ Phật giáo. Nhiều chương trong tác phẩm được đặt tên bằng những khái niệm nhà Phật: "Ngược thác oan" (chương VIII), "Niệm xứ" (chương XI), "Đoạ xứ" (chương XII), "Nghiệp chướng" (chương XV), "Hành cước" (chương XVI), "Báo oán" (chương XVII), "Thiền sư" (chương XVIII), "Đầu thai" (chương XX), "Giải thoát" (chương XXI) (9/25 chương). Tiểu thuyết mở đầu bằng lời của Phật nói với các tỳ kheo: "ơ các tỳ kheo! Nếu các người lại để mình mắc vào thuyết ấy, nếu các người ưa thích nó, nếu các người mê luyến nó, gìn giữ nó như một kho bảo vật, nghĩa là các người bị ràng buộc vào nó, thì các người đâu có hiểu rằng giáo lý của ta có khác nào là chiếc bè để đưa qua sông chứ không phải để buộc trói người vào đó " [4, tr.17]. Khắp tác phẩm văng vẳng những lời cầu kinh: "… An ta phạ bà pha, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ bà phà… " [4, tr.20].

"Kính đức Đại bi Quang Thế Âm cho con mau lên thuyền Bát Nhã

Kính đức Đại bi Quang Thế Âm cho con sớm vượt qua bể

Kính đức Đại bi Quang Thế Âm cho con sớm lên cõi Niết Bàn

Kính đức Đại bi Quang Thế Âm cho con mau đến nhà vô vi …" [4, tr.22].

Các nhân vật trong truyện cũng thường nói với nhau bằng ngôn ngữ nhà Phật. Vị Thượng tọa nói với vua Thần Tông: "Mô Phật! Kẻ tu hành này thật lấy làm nhục nhã thấy người đau mà không giúp… " [4, tr.50]. Lời Từ Lộ khấn người cha bị chết oan: "Lạy cha… Kiếp này không phải của con. Con chỉ sống đề trả oán này…! Xin trời cao đất dầy chứng giám" [4, tr.78]. Nhìn thấy sự sa đọa của Thần Tông (kiếp sau của Từ Lộ), sư bà động Trầm (Nhuệ Anh) thốt lên đau đớn: "Trong khi ta chưa trả nợ xong kiếp này, thì chàng đã kịp trải hai kiếp để hành hạ, vò xé ta bằng những nỗi đau khổ của chàng, bằng những bước đi thập thững và dại dột của chàng " [4, tr.319]. Đạo Phật hướng con người tới lối sống thoát tục, rũ bỏ những dục vọng tầm thường, sống từ bi hỉ xả. Những con người trong tác phẩm thấm nhuần triết lý nhân đạo của đạo Phật, sùng bái đạo Phật nhưng ngọn lửa dục vọng vẫn rừng rực cháy trong họ. Những toan tính, tham vọng cá nhân đã khiến họ lún sâu vào tội ác. Họ tụng kinh, niệm Phật như để che giấu những tội lỗi mà họ đã gây ra.

Tiểu thuyết "Hồ Quý Ly" của Nguyễn Xuân Khánh kể về giai đoạn lịch sử thế kỷ XIV - XV. Đó là thời kỳ cực thịnh của Nho học. Nho giáo trở thành quốc giáo, chi phối trong từng lời nói, nếp nghĩ của con người. Trong những lời tấu trình, thậm chí cả khi trò chuyện các nhân vật đều viện dẫn sách vở, kinh điển Nho gia. Trong hội thề Đồng Cổ, vua Nghệ Tôn nói với các cận thần: "Kẻ làm tôi bất trung thì thần linh tru diệt" [5, tr.22]. Hồ Quý Ly nói với con trai "Người quân tử cũng phải biết chịu khuất thân, miễn chí lớn cuối cùng đạt được" [5, tr.54].

Tiểu thuyết "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác  viết về thời đại Tây Sơn. Đó là thời kỳ phong trào nông dân khởi nghĩa diễn ra rầm rộ, Nho học bước vào buổi cuối mùa. Lớp ngôn ngữ cung đình, Nho - Phật do vậy chỉ còn rơi rớt nơi cung vua, phủ chúa điêu tàn, rệu rã và trong lời những nhà nho thất thế.

Tiểu thuyết "Mẫu thượng ngàn" của Nguyễn Xuân Khánh tái hiện lại bức tranh xã hội ViệtNam những năm cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. Đó là thời kì Thiên chúa giáo bắt đầu len lỏi vào đời sống tinh thần của người dân Việt Nam, trong khi Nho học tuy bước vào buổi cuối mùa nhưng vẫn chưa lụi tắt, đạo Phật vẫn sống trong đức tin của người dân Việt. Trước sự xâm thực của Thiên chúa giáo với âm mưu đồng hoá về văn hoá của thực dân Pháp, người dân Việt đã lựa chọn cho mình một cách ứng xử mềm dẻo. Họ tiếp nhận những phần tốt đẹp của các tôn giáo, đồng thời vẫn thờ đạo riêng của mình: Đạo Mẫu, thờ Đất Mẹ thiêng liêng. ở thời buổi giao thoa giữa các tôn giáo ấy, ngôn ngữ cũng có điểm đặc biệt. Ngôn ngữ của cụ đồ Tiết, cụ cử Khiêm, phó bảng Vũ Duy Tân mang khẩu khí của những nhà Nho học. Cụ cử Khiêm nói với học trò: "Việc có thị có phi. Muốn xét đoán việc, phải lấy tấm lòng son với xã tắc làm chuẩn mực. Cái gì trái với điều ấy thì không làm " [6, tr.285]. Với những người theo đạo Thiên chúa, lời nói của họ luôn hướng đến Chúa như tìm đến sức mạnh, niềm tin. Phần lớn người dân Việt thờ đạo riêng của mình - Đạo Mẫu tạo nên thứ ngôn ngữ riêng bao phủ khắp tác phẩm. Người già kể cho con trẻ nghe, con trẻ lại truyền cho nhau những câu chuyện về "Thánh Mẫu", "giá Mẫu", "ốp đồng", "cô hầu", "hát chầu văn"… Mặc dù cùng lúc tiếp nhận nhiều tôn giáo nhưng người Việt đã nhận ra và hành xử theo những điều tốt đẹp mà các tôn giáo mang lại. Ngôn ngữ của người dân chủ yếu là ngôn ngữ khuyến thiện. Cha Colombert nói với bà Vũ Thị Ngát: "Đạo thánh hiền cũng có những điều giống như đạo của Chúa. Ví dụ đạo Khổng dạy con người nhân nghĩa, còn đạo Thiên chúa thì lấy tình thương yêu con người làm căn bản… " [6, tr.302]. Bà Tổ cô tâm sự với cô Mùi: "Đạo nào cũng thế cả thôi. Đạo Giêsu cũng như đạo Mẫu. Tất cả đều chỉ là khuyến thiện" [6, tr.696]. Lớp ngôn ngữ tôn giáo này đã cho ta thấy bức tranh văn hoá nhiều màu sắc của Việt trong buổi giao thời. Và điều quan trọng hơn hệ thống ngôn ngữ này còn cho thấy cách ứng xử thông minh của người Việt trước nguy cơ bị đồng hoá về văn hoá để có thể đứng vững, trường tồn.

Như vậy, lớp ngôn ngữ quan phương, cổ kính có vai trò rất quan trọng trong các tiểu thuyết lịch sử. Lớp ngôn ngữ này mang lại hơi thở thời đại cho các tiểu thuyết lịch sử, thuyết phục người đọc bằng những chứng cứ cụ thể, chi tiết. Đồng thời nó còn là phương tiện khám phá đời sống bên trong của các vương triều và trong tâm hồn con người.

2. Lớp ngôn ngữ đời sống giản dị, nhiều màu sắc

Nếu như chỉ sử dụng lớp ngôn ngữ quan phương, cổ kính tiểu thuyết lịch sử sau 1975 sẽ chẳng khác gì một cuốn sử biên niên, thuần tuý ghi chép, mô tả lại các sự việc. Và như thế, mỗi cuốn tiểu thuyết lịch sử sẽ giống như một cuốn sách giáo khoa lịch sử, chứa đầy những chi tiết khô khan, kinh viện. Người đọc chỉ thấy được lớp vàng son bề ngoài của nó mà không hiểu hết được bản chất bên trong. Việc đưa ngôn ngữ đời sống vào trong tác phẩm có thể xem là một hành động phá cách, vượt chuẩn của các nhà văn viết về đề tài lịch sử sau 1975. Lớp ngôn ngữ quan phương, cổ kính tạo cho người đọc niềm tin vào sự có thật của các chi tiết được kể, còn lớp ngôn ngữ hiện đại, trần trụi lại giúp người đọc được sống trong không khí thật của câu chuyện, cảm nhận được sự gần gũi, thân quen trong từng lời kể, làm sống dậy "những xác chết biên niên sử". Điều quan trọng hơn là, với lớp ngôn ngữ này, người viết có điều kiện đi sâu khám phá thế giới tâm hồn sâu kín, đầy ngõ ngách của con người. Toàn bộ bản chất của con người theo lời nói được bộc lộ ra. Từ đây, những "nghi vấn" lịch sử cũng được giải thích một cách thoả đáng, thuyết phục hơn.

Trong tiểu thuyết "Sông Côn mùa lũ", lớp ngôn ngữ đời thường chiếm tuyệt đối. Các nhân vật chính trong tác phẩm đều xuất phát từ tầng lớp thường dân áo vải. Nguyễn Nhạc trước khi trở thành vua Thái Đức đã phải xoay sở đủ nghề, từ khai khẩn đất hoang, buôn nguồn đến làm chức đốc thuế để nuôi em và tạo dựng sự nghiệp. Vua Quang Trung trước đó cũng chỉ là một trí thức bình dân. Bởi vậy, cách nói năng của họ rất tự nhiên, thoải mái, thậm chí suồng sã, không khác gì dân thường. Vua Thái Đức khi nói chuyện với Ngọc Hân - công chúa của nhà Lê, phu nhân của Nguyễn Huệ, đã dùng những từ ngữ rất thân mật như những người trong gia đình thường dân nói với nhau: "Thím cầm chân được chú Tám nhà này là giỏi rồi, là trở thành ân nhân của ta rồi. Chỉ trông cái bộ bẽn lẽn của chú ta cũng biết ngựa hoang đã bị đóng cương rồi đấy!" [2]. Thế nhưng, khi giận dữ, toàn bộ bản chất của một gã buôn nguồn nhiều mánh lới trong Nguyễn Nhạc lại tuôn qua từng lời nói.

Khi giận Nguyễn Huệ đã tự ý kéo quân ra Bắc, ông chửi mắng bằng những lời thậm tệ: "Bầy "ngựa non háu đá" mê đường trường không chịu về chuồng. Các người đoán đúng lắm. Mỗi đứa bịa ra một cớ để ở lì ngoài đó. Toàn là một lũ vong ân bội nghĩa" [2], "Cút đi. Về bảo cái bọn sai tụi mày vào đây là ta đã xé tờ biểu như vậy đó. Quân vô ơn bội nghĩa. Nếu không có ta gầy dựng thì cả lũ bây giờ quá lắm là những tên buôn trầu, những thằng mót củi, làm thuê chứ đâu được ngồi sập vàng ăn mâm bạc " [2]. Nguyễn Huệ là người điềm tĩnh, quyết đoán, từ khi mới lớn lên đã được học chữ nghĩa nho gia với thầy giáo Hiến. Bởi vậy lời nói của ông bao giờ cũng đĩnh đạc, nghiêm túc. Ngay cả khi nói những lời bông đùa, hóm hỉnh, lời nói của ông cũng không có sắc thái cợt nhã thái quá: "Vì dẹp loạn mà ra, rồi lấy vợ mà về, trẻ con nó cười cho thí sao? Nhưng ta mới chỉ quen gái Nam hà, chưa biết con gái Bắc hà. Nay cũng nên thử xem một chuyến xem có tốt không?" [2]. Khi đứng trước An - người con gái mình yêu, chưa bao giờ Huệ dám nói chuyện tự nhiên với cô. Khác với Huệ, Lợi là người ít học, nhưng bao nhiêu năm theo biện Nhạc đi buôn nguồn khiến Lợi trở thành một kẻ lanh lợi, ranh mãnh. Lợi biết cách nói chuyện để vừa lòng mọi người. Chính ưu điểm này của anh ta đã khiến An nhiều lúc phải phân vân lựa chọn giữa Huệ và Lợi. Tác phẩm thành công ở mạch truyện thế sự. Nhiều nhân vật không có trong sử sách như An, Lãng, ông giáo Hiến… cũng trở thành những nhân vật chính của truyện. Tiếng nói của những con người đời thường này làm cho câu chuyện càng gần gũi, thân quen với người đọc thế hệ sau.

Trong tiểu thuyết "Hồ Quý Ly", khoảng cách sử thi của sự kiện lịch sử và nhân vật đã được thu hẹp nhờ lớp ngôn ngữ đời thường tự nhiên, sống động. Hồ Quý Ly là một kẻ quyền biến, cả gan, dám nghĩ dám làm. Trong những lời tranh luận về chính sự, thời cuộc, ông luôn bộc lộ cá tính ngang tàng, bướng bỉnh, quyết đoán. Khi giận dữ ông dùng cả những lời nói báng bổ: " Chu Hi là cái đếch gì! Trình Di cũng là cái đếch gì! Thuần một lũ ăn cắp văn mà thôi…" [5, tr.732]. Khi đối thoại với con, ông trở thành một người cha gần gũi, hiền lành. Ông nói với con bằng những lời thân mật, dịu dàng: "Anh Trừng! Đã đến lúc cha phải vào Tây Đô" [5, tr.669], "Anh Trừng đấy hả? Cha biết là anh sẽ đến." [5, tr.828]. Những lúc một mình quỳ dưới bàn thờ của công chúa Huy Ninh, Hồ Quý Ly lại trở thành một con người khác: cô đơn, trầm lắng đến tội nghiệp. Lời người kể chuyện đan cài trong lời nhân vật làm cho hiện tại, quá khứ đan quện vào nhau càng làm rõ cái phần yếu đuối trong con người tưởng như chỉ biết có âm mưu, toan tính: "Sự dịu hiền của bà ám vào trong không gian, trên cái gối, cái chăn luôn luôn thơm tho mời đón, trên mâm cơm giản dị ngon lành tự tay bà nấu. Có bận ông ốm, bà nấu cho ông bát canh sâm cầm nóng. Ông chậm rãi nhai những mẩu hành như nhai những đốm hoa màu ngà xanh bơi trong thứ nước sóng sánh… Ông nhai chậm rãi. Ô kìa! Sao lại thế? Hành mà có vị thơm đến thế ư? Lần đầu tiên trong đời ông cảm nhận được hương thơm của một nhánh hành hoa. Có lẽ cuộc sống chính trường vội vã, hối hả và bạo liệt đã làm cho tất cả giác quan của ông bị thui chột… Và chỉ có bàn tay người đàn bà mới có thể làm thức dậy những cảm xúc tinh tế mà con người đã đánh mất…" [5, tr.569]. Bên cạnh đó, tác phẩm còn có nhiều đoạn văn được diễn tả bằng những từ ngữ hiện đại: "Chúng tôi nói với nhau bằng cách nói nửa lời như vậy, nhưng tôi cảm thấy hình như chúng tôi đã hiểu nhau. Cho đến lúc chúng tôi giao hoà cùng nhau thì tôi đã hoàn toàn hiểu nàng. Nàng nói với tôi ư? Không. Nàng chẳng nói. Nhưng im lặng đã nói. Khi một người nam và một người nữ đã hoàn toàn hiểu nhau thì đó là một sự thái hoà" [5].

Với tiểu thuyết "Giàn thiêu", nhà văn Võ Thị Hảo đã đặt cái tốt - cái xấu ở những thái cực đối lập nhau. Ngôn ngữ diễn đạt theo đó cũng được đẩy tới những giới hạn của nó. Những trang viết về tình yêu, về cái đẹp được tạo nên bởi ngôn ngữ bóng bẩy, giàu chất thơ. Cảm giác về tình yêu đam mê, đắm đuối được diễn tả bằng ngôn ngữ hiện đại, bay bổng: "Những giọt mưa dội xuống thân thể lúc này lại dịu dàng êm ái, mỗi giọt mưa chạm xuống như mang theo một hơi thở nồng nàn sưởi ấm cơ thể nàng. Những ngón tay Nhuệ Anh níu chặt bên vai Từ. Nàng run rẩy áp cặp môi trinh nữ lên vòng ngực trần nóng hổi trong mưa của chàng. Cái mùi đàn ông lạ lẫm, đắng ngắt, ngầy ngậy, bạo liệt như đá rừng rực toả hơi nóng dưới ánh mặt trời pha lẫn hơi mưa tươi tắn và tinh khiết khiến nàng ngây ngất chợt như lả đi, chợt như lạc vào cõi phiêu bồng" [4, tr.211]. Khi trong lòng chất chứa mỗi hận thù, những dục vọng, ngôn ngữ trở nên sắc nhọn, trần trụi. Lãnh cung, nơi ghi dấu tội ác man rợ do con người tham muốn quyền lực và lòng đố kị gây ra được miêu tả đầy rùng rợn: "ở dưới đáy hầm mộ là một đàn chuột hăm he cắn nát chân tay mặt mũi nàng vừa nãy. Khi tiếng thì thào vừa dứt, những bộ xương cẳng tay cẳng chân, đầu lâu từ từ dựng dậy nối nhau chuyển động xếp lại trật tự răm rắp thành hình người. Từ miệng của những con chuột đang ngủ, một dòng da thịt chảy ra, chắp vào những bộ xương đó. Có bẩy mươi bẩy bộ xương". [4, tr.229].

Tiểu thuyết "Mẫu thượng ngàn" không còn kiểu ngôn ngữ cổ kính, quy phạm. Toàn bộ tác phẩm là thứ ngôn ngữ tự nhiên như lời nói hàng ngày. Cách nói của phương Tây du nhập và được lớp trẻ sử dụng: "Toa về đã lâu chưa? Sao chẳng đến nhà mình? Moa tưởng toa còn lâu mới về?" [6, tr.454].

Lớp ngôn ngữ đời sống giản dị, sinh động ngày càng chiếm ưu thế trong tiểu thuyết lịch sử sau 1975. Lớp ngôn ngữ này đã rút ngắn khoảng cách sử thi, giúp người đọc khám phá lịch sử ở bề sâu, bề xa của nó. Lịch sử không còn là vật để thờ cúng mà chính là cuộc sống sinh động, tươi nguyên.

3. Lớp ngôn ngữ mang màu sắc triết luận

Tác phẩm văn học suy cho cùng là "nơi kí thác, nơi khẳng định quan điểm nhân sinh, lý tưởng thẩm mỹ" [3, tr.196] của nhà văn. Lấy đề tài lịch sử làm cảm hứng sáng tạo các nhà văn sau 1975 không chỉ dừng lại ở việc minh hoạ lại bức tranh lịch sử dân tộc như các nhà viết sử đã làm. Họ muốn mượn lịch sử làm phương tiện chuyển tải những quan điểm của mình về quá khứ và hiện tại. Điều này đã tạo ra hình thức ngôn ngữ mang màu sắc triết luận cho tác phẩm. Lớp ngôn ngữ này chủ yếu xuất hiện trong lời đối thoại và độc thoại nội tâm của nhân vật. Nhân vật Nguyễn Huệ trong "Sông Côn mùa lũ" thường có những cuộc đối thoại thẳng thắn với thầy giáo Hiến để tìm ra chân lý. Là học trò của ông giáo nhưng Huệ là một chàng trai trẻ mang đầy những khát vọng lớn lao. Anh thường đặt ra cho thầy những câu hỏi hóc búa như: "thế nào mới là người nghĩa hiệp?", "thế nào là đói?"… Qua những lần trao đổi ấy đã bộc lộ những suy ngẫm của Nguyễn Huệ về cuộc đời, con người và ước mơ làm nên những cái mới tốt đẹp hơn cuộc sống trong nhãn quan của thầy Hiến. Tác phẩm có nhiều đoạn ghi lại những cảm nhận sâu sắc về chiến tranh. Phụ nữ là ngư­ời có cảm nhận rõ nhất về sự mất mát do chiến tranh gây ra. Trong khi những ng­ười lính rộn rã, vui mừng chuẩn bị cho những cuộc tấn công mới thì những ng­ười đàn bà lại âm thầm đau khổ bởi họ sắp phải tiễn chồng, tiễn con đi đến chỗ chết. Có lẽ chỉ những ng­ười mang nặng đẻ đau mới cảm nhận hết nỗi đau này: “Em không phải là đàn bà, không mang nặng đẻ đau nên không thể hiểu đ­ược tấm lòng của ng­ười mẹ. Khổ sở nuôi con khôn lớn, rồi sắm sửa quần áo, gạo thóc, đ­ưa nó đi, đi đâu? Đư­a đến chỗ hòn tên mũi đạn để chết. Bao nhiêu công phu đổ xuống sông xuống biển, không đau đớn sao được!...Tự nhiên xông ra đâm chém nhau, để ruộng n­ương lại cho đàn bà cày cấy, t­ưới mồ hôi kiếm cơm nuôi lũ nhỏ lớn lên để tiễn chúng ra trận chuyến sau, chuyến sau nữa ..." [2]. 

Chiến tranh bao giờ cũng khốc liệt và gây ám ảnh nhất đối với con ng­ười. Ngay cả với những cuộc chiến gi­ương cao ngọn cờ chính nghĩa, để giải phóng loài ng­ười, ng­ười dân luôn phải chịu đau khổ, phải hy sinh những ng­ười chồng, ng­ười con vô cùng yêu dấu của mình. Lẽ ra những ng­ười nh­ư An, Thọ Hư­ơng sẽ đư­ợc sống thanh thản, yên ổn nh­ưng thời cuộc đã khiến họ long đong, khốn khổ. Thọ H­ương, ng­ười con gái yêu của Nguyễn Nhạc cũng bị sử dụng như­ một con bài trong ván bài chính trị của vua cha. Ng­ười cha lạnh lùng ép gả cô cho hoàng tôn D­ương để nhằm trấn an lòng dân. Cô gái 18 tuổi bất đắc dĩ phải trở thành vợ của một kẻ cô chư­a hề quen biết. Cô phải sống bên một ng­ười chồng hờ, mang tiếng là đàn bà mà ch­ưa một lần đ­ược làm đàn bà. Chư­a đầy 20 tuổi, hoàng tôn bỏ đi, cô trở thành ngư­ời đàn bà goá bụa. Thọ H­ương chua chát tự nhận mình “Em chẳng khác nào viên đá lót đường cho ng­ười ta dẫm lên trên. Thân em bị chà đạp, đau xót, lấm láp mà không ai thư­ơng xót..." [2]. Đó dường như đã là định mệnh chung của những người phụ nữ trong thời chiến. Tác phẩm còn thể hiện những quan niệm riêng về lịch sử thông qua những từ ngữ giàu hình ảnh. Người viết sử không chỉ ghi lại những điều quan trọng, những biến cố to lớn trong lịch sử bởi “Lọc bỏ không thương tiếc các xúc động riêng tư­, sổ toẹt những chuyện bên lề, chỉ giữ lại cái sư­ờn biên niên của lịch sử, làm như­ vậy có khác nào lóc bỏ hết da thịt để lịch sử chỉ còn là một mớ x­ương xẩu ghê tởm đủ mùi tanh hôi cuốn lũ ruồi nhặng và làm cái cớ cho bọn bán thịt chuyên nghiệp vênh váo" [2].

Nhiều nhân vật trong tiểu thuyết "Hồ Quý Ly" thường sống trong dòng độc thoại nội tâm. Đó chính là lúc họ đối diện với chính mình, bày tỏ những suy nghĩ thật của mình về cuộc đời và con người. Nhân vật Hồ Nguyên Trừng cảm nhận cung đình là nơi đầy phức tạp và bất ổn: "Điều quan trọng mà tôi nhận ra ở cái sân khấu quyền quý, hoa lệ này, đó là sự giành giật, sự vật lộn không khoan nhượng, nó thường hằng rộng khắp, một nụ cười, một vái chào, một khoé mắt cũng phải coi chừng" [5, tr.58]. Ngoài ra nhà văn còn sử dụng nhiều câu hỏi tự vấn vừa để nhân vật tự phơi bày dòng ý thức của mình, vừa tạo điều kiện cho người đọc tự suy ngẫm, kiến giải: "Mâu thuẫn đến thế, sự giằng xé đến thế vậy mà ông lại muốn ra đi một cách nhẹ nhàng sao? Ông muốn mặc đồ lụa vàng; lụa dù nhẹ nhưng cất sao nổi gánh nặng trong lòng ông. Trong tâm tưởng, chợt nghe một tiếng ai đó thét lên : "Ngươi làm đổ cơ nghiệp nhà Trần" "Không!" "Chẳng phải tại tôi. Đó là vận nước!" "Tội lỗi do người quá nhân từ.""Sách chẳng nói chữ nhân là cái đức đầu tiên của ông vua sáng đó sao?" [5, tr.169].

Lớp ngôn ngữ triết luận trong các tiểu thuyết lịch sử sau 1975 không phải là những lời giảng giải khô cứng, khuôn mẫu. Lớp ngôn ngữ này được nhà văn sử dụng thông qua những từ ngữ giàu tính hình tượng và kết hợp nhiều hình thức linh hoạt như: đối thoại, độc thoại, câu hỏi nghi vấn… làm cho cảm hứng triết luận được bộc lộ một cách tự nhiên, hấp dẫn. Lớp ngôn ngữ mang màu sắc triết luận đã giúp người viết có thể bộc lộ một cách kín đáo những suy ngẫm của mình về các vấn đề của quá khứ và hiện tại. Đồng thời lớp ngôn ngữ này cũng tạo ra những khoảng trống để người đọc cùng suy ngẫm, lý giải các vấn đề.

Sự kết hợp đa dạng các hình thức ngôn ngữ đã đem lại sự khởi sắc cho tiểu thuyết lịch sử sau 1975. Sự đổi mới trong ngôn ngữ tiểu thuyết lịch sử sau 1975 gắn với nhu cầu dân chủ hoá về ngôn ngữ, về nghệ thuật, nhu cầu bình đẳng, khách quan với lịch sử. Sự đổi mới này cho thấy các nhà văn sau 1975 đã không ngừng bứt phá làm mới mình, mạnh dạn thể nghiệm những hướng đi mới. Ban đầu đã có nhiều ý kiến không thống nhất về sự thay đổi táo báo này. Nhưng thời gian đã chứng minh những thể nghiệm trong ngôn ngữ tiểu thuyết lịch sử sau 1975 là những nỗ lực đáng trân trọng của người viết và hứa hẹn nhiều thành công.

ThS. Ngô Thị Quỳnh Nga ( hoinhavanvietnam.vn)

 Tài liệu tham khảo:

1. Trương Đăng Dung, Tiểu thuyết lịch sử trong quan niệm của Lucacs, Tạp chí văn học, số 5, 1994.

2. Nguyễn Mộng Giác, Sông Côn mùa lũ, http//:dactrung.net

3. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1992.

4. Võ Thị Hảo, Giàn thiêu, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội, 2003.

5. Nguyễn Xuân Khánh, Hồ Quý Ly, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 2002.

6. Nguyễn Xuân Khánh, Mẫu thượng ngàn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 2006.

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LTS: Cuộc tranh luận giữa hai luồng ý kiến về nhân vật lịch sử Nguyễn Hiển Dĩnh, một mệnh quan triều đình Huế có công hay có tội vẫn chưa thuyết phục được nhau.Vấn đề này, Tòa soạn chúng tôi cũng chỉ biết... nhờ ông Khổng Tử "Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri giả" (biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, ấy là biết). Vậy nên bài viết sau đây của nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Nguyễn Đắc Xuân, chúng tôi xin đăng nguyên văn, tác giả phải gánh trọn trách nhiệm về độ chính xác, về tính khoa học của văn bản.Mong các nhà nghiên cứu, cùng bạn đọc quan tâm tham gia trao đổi tiếp.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNăm 1998, Thành phố Đà Nẵng dự định lấy tên nhà soạn tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh đặt cho con đường mới song song với đường 2 tháng 9 và đường Núi Thành. Nhưng sau đó qua một số tin bài của tôi đăng trên báo Lao Động nêu lên những điểm chưa rõ ràng trong tiểu sử của ông Nguyễn Hiển Dĩnh, UBND Thành phố Đà Nẵng thấy có một cái gì chưa ổn trong tiểu sử của Nguyễn Hiển Dĩnh nên đã thống nhất rút tên ông ra khỏi danh sách danh nhân dùng để đặt tên đường phố lần ấy. Như thế mọi việc đã tạm ổn.

  • Vừa qua nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân có viết một loạt bài về ông Nguyễn Hiển Dĩnh - một quan lại triều nguyễn, nhà soạn tuồng nổi tiếng Quảng Nam. Qua thư tịch, anh chứng minh Nguyễn Hiển Dĩnh tuy có đóng góp cho nghệ thuật tuồng cổ nhưng những hành vi tiếp tay cho Pháp đàn áp các phong trào yêu nước ở Quảng Nam quá nặng nề nên không thể tôn xưng Nguyễn Hiển Dĩnh là danh nhân văn hoá của việt Nam như Viện Sân khấu và ngành văn hoá ở Quảng Nam Đà Nẵng đã làm. Qua các bài viết của Nguyễn Đắc Xuân có những vấn đề lâu nay ngành văn hoá lịch sử chưa chú ý đến. nhà báo Bùi Ngọc Quỳnh đã có cuộc đối thoại lý thú với anh về những vấn đề nầy.

  • ĐỖ NGỌC YÊNVào những năm 70 của thế kỷ, ở nhiều nước phương Tây tràn ngập không khí của cuộc khủng hoảng gia đình, làm cho nhiều người rất lo ngại. Một số kẻ cực đoan chủ trương xóa bỏ hình mẫu gia đình truyền thống. Nhưng cái khó đối với họ không phải là việc từ bỏ hình mẫu gia đình cũ - mặc dù trên thực tế việc làm đó không phải dễ - mà vấn đề đâu là hình mẫu gia đình mới.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH             Phóng sự điều tra

  • THỦY THANHLâu nay, "quả lắc" vì sự trong sáng tiếng Việt dường như đã trì vào điểm chết của dây dọi. Những mặc cảm, thành kiến hoặc dị ứng về sự "ga lăng ngôn ngữ" trước áp lực của thời đại tin học cũng chững lại như một thái độ thăm dò. Suy cho cùng thì ngôn ngữ cũng có đời sống riêng và nó bao gồm cả thể vía lẫn thể xác. Nó cũng "hữu sinh tất hữu diệt" trong luật tiến hóa và đào thải như nhiên. Ngôn ngữ nói chung là một phương pháp hệ thống hóa và tích lũy tri thức theo sự diễn tiến về mặt lịch đại và sự tiệm tiến về mặt đồng đại.

  • Các lý thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung tối quan trọng không thể chối cãi: tác phẩm văn học là một hiện tượng sử dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau.

  • Viết là một công việc bất hạnh. Một trong những yếu tố gây khốn khổ cho nhà văn là cốt truyện. Cốt truyện là “ông ngoáo ộp” dọa dẫm người cầm bút và cũng là nguyên nhân chung dẫn đến sự bế tắc của họ trong quá trình triển khai tác phẩm.

  • Trên thế giới, ít có loài hoa nào ra đời sớm, phổ biến với nhiều biểu trưng cao quý như hoa sen. Dáng hình đẹp, màu sắc trang nhã, hương thơm thùy mị, thanh khiết, không nhiễm bẩn... chừng ấy đức tính tốt đẹp đã đưa hoa sen thành biểu trưng cao quý của đạo Phật.

  • TRẦN ĐƯƠNGGoethe (1749-1832) hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào ông cũng thâu tóm những tri thức đồ sộ, cũng đạt được những thành tựu xuất sắc. Tên tuổi ông trở thành niềm tự hào của cả dân tộc, được Các Mác gọi là người Đức vĩ đại nhất”.

  • AN CHÍNHCó lẽ Hồng Nguyên là một trong những nhà thơ rất thành công về việc dùng "tiếng địa phương trong thơ của mình.

  • Flier Andrei Jakovlevich(Tiến sĩ triết học, nhà văn hóa học của Nga)

  • HOÀNG NGỌC HIẾN    (Đọc "Văn hóa chính trị - truyền thống và hiện đại" (1) của Nguyễn Hồng Phong)Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX06 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm(2). Lịch sử những quá trình hiện đại hóa ở Việt Nam từ cuối t.k.XIX đến nay là một chủ đề quan trọng của công trình.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHThực trạng của phê bình nghệ thuật hiện nay đang là một câu hỏi cần phải được trả lời.

  • THỦY THANHCuộc thi thơ dành cho người tàn tật ở Thừa Thiên Huế mặc dù "thời gian ứng thí" chưa đầy 2 tháng nhưng đã thu được kết quả đáng khích lệ. Với 33 tác phẩm của 7 tác giả nghiệp dư mang khuyết tật trên mình nhưng mỗi con người trong họ vẫn là "một thế giới một tâm hồn" lành lặn.

  • HOÀNG TẤT THẮNGMột trong những đặc điểm đặc thù của tiếng Việt là: các danh từ chỉ sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất... không phải luôn chỉ đứng một mình mà thường kết hợp với một từ đứng trước với chức năng phân loại, chỉ đơn vị, biểu thái... trong lời nói. Chẳng hạn, sự vật thuyền trong tiếng Việt không phải chỉ có từ "thuyền" mà còn có "cái thuyền", "chiếc thuyền", "con thuyền", "lá thuyền", "mảnh thuyền"... các từ "cái - chiếc - con - lá - mảnh..." thường gọi là từ chỉ loại (hay là loại từ).

  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học thời đại nào cũng là sự du di cái nhìn thấm sâu vào đời sống. Thơ văn nói tới cái thật xa, rồi lại trở về với cái thật gần. Muốn đi xa, hành trang thơ phải gọn nhẹ, nhẹ chữ nhưng nặng lòng. Thơ Thiền là vậy. Mỗi câu thơ như một mũi tên bay vào tưởng tượng. Giữa những dòng thơ Thiền là một cõi chân như, vượt ra ngoài định giới môi trường xã hội quen thuộc, vì thế thơ Thiền thênh thang hướng đạo nhằm mục đích cứu sinh, đưa con người trở về với chính nó.

  • LÊ ĐẠT                Đường bụi trang lịch cũ                 ếp ếp đàn thời gian                                           L.Đ

  • HOÀNG NGỌC HIẾN             (góp phần định nghĩa minh triết)Tôi bắt đầu tiểu luận này bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề minh triết của hai học giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914- 1997).

  • VÕ VĨNH KHUYẾNBa mươi năm, sau khi Bác qua đời (1969 - 1999) có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều chuyên luận và khá nhiều bài viết trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước về thơ, văn của Bác. Quy mô và mức độ có khác nhau. Tuy vậy, vẫn có chỗ chưa được khảo sát một cách đầy đủ, chưa được đầu tư nghiên cứu một cách thỏa đáng. Trong phạm vi, khả năng cá nhân và nội hàm vấn đề, chúng tôi mạnh dạn trình bày một số suy nghĩ về thơ Bác viết cho thiếu nhi.