Sự “Phục hồi chủ quyền văn hóa của cá tính” trong truyện ngắn Xô Viết

09:02 05/06/2008
Văn học, từ xưa đến nay là sự khám phá không ngừng nghỉ về con người, đặc biệt về tâm hồn con người. Khám phá đó giúp cho con người hiểu rõ về bản thân mình hơn, cũng có nghĩa là con người sẽ biết sống tốt đẹp hơn, chất lượng sống do đó sẽ được nâng cao.

Tuy nhiên tuỳ từng giai đoạn lịch sử khác nhau mà văn học khi thì phản ánh con người với đầy đủ vẻ hoành tráng sử thi của nó, khi lại đi vào những khám phá tận cùng sâu thẳm của bản chất người. Có thể thấy văn học Nga – Xô viết trải qua những chặng đường như vậy với cái mốc lịch sử trước và sau Cách mạng Tháng Mười.
Tiếp tục chủ nghĩa nhân đạo, tầm vĩ mô của văn học hiện thực phê phán thế kỷ XIX quan tâm sâu sắc đến số phận của đất nước, của nhân dân, văn học Xô viết nói chung và truyện ngắn nói riêng đã giành một phạm vi rộng lớn cho việc khám phá nhiều khía cạnh mối quan hệ giữa người với người. Đặc biệt truyện ngắn Xô viết từ sau Cách mạng Tháng Mười đã miêu tả con người với tất cả sự phức tạp của nó trong hoàn cảnh sống cụ thể “con người đa nghĩa”. Xung quanh khuôn mặt đa diện đó của con người, các nhà văn Xô viết đã nghiên cứu, phát hiện những biểu hiện bất ngờ mà có lý của thực thể được gọi chính xác là “con người”. Không phải là những con người được đặt trước sự lựa chọn đạo đức căng thẳng của chiến tranh, của những vấn đề to tát trong thời bình, ở những truyện ngắn Xô viết, chính là con người chỉ đơn giản được “đặt lên cân” trong những thời điểm của cuộc sống có nguy cơ yếu tố “con” chiến thắng phần thượng tầng “người” của nó. Không bị đặt trước những thử thách nghiêm trọng có tính quyết định sống còn, hoặc huỷ diệt hoặc bất tử... Lúc này đây, con người vẫn có thể “tồn tại” nhưng mà họ không “sống”, cũng tức là họ không bị đe doạ về sinh mạng trần gian song khủng khiếp hơn họ đang mắc một chứng bệnh trầm kha mà họ không hề hay biết, bệnh SIDA về mặt tinh thần. Người ta những tưởng chỉ có chiến tranh mới gây nên chết chóc, chỉ có bệnh tật và tuổi già mới chấm dứt sự sống, có ai ngờ tội ác lớn nhất của con người đối với đồng loại lại chính là sự thờ ơ lạnh nhạt của con người. Chính là nhờ văn học với “sự phục hồi chủ quyền văn hoá của cá tính”(1) mà người ta mới được chỉ cho thấy ta đã thờ ơ với số phận của người khác như thế nào, ta đã không biết gì về một con người lúc họ đang còn sống ra sao: “Người nào cũng đui điếc trước nỗi đau và cái chết của đồng loại” (1,297), Ngay cả người bạn thân của nhân vật đã chết cũng vì thờ ơ với nỗi niềm của bạn – để cho bạn ra đi mà không có cơ hội giải thích một lời nào – vì một lẽ ông ta cũng như những người khác, “không thể nào chịu để cho một người khác có thể hoàn toàn không giống như chúng ta đây” (1,244), nên thay vì nghe bạn tâm sự, ông ta đã gạt đi vì “vội đi xếp hàng. Người ta bán xúc xích” (1,243). Chính sự tầm thường, thô lỗ, tồi tệ của cuộc đời đã làm tha hoá con người, khiến cho con người “được đặt lên cân và thấy mình thiếu hụt”. Rõ ràng sự “ thiếu hụt” đó là thiếu hụt về đạo lý, về nhân cách của lối sống vị kỷ, của thói đạo đức giả. Nhân vật là nhà nghiên cứu nghệ thuật có tiếng vốn được xem là “nhà nghiền nát nghệ thuật”, khi một tài năng nọ còn sống thì đã phân tích những tác phẩm của anh ta khiến cho chúng “chết ngỏm”, nay vĩ nhân kia đã chết, y lại tâng bốc chúng. Và khi có người lên án hành động của y, y đã biện hộ: “Tôi không phải là kẻ giáo điều” (1,248) với một bản lĩnh tự chủ khiến cho con người chân chính phải “khiếp sợ”. Cũng trong truyện ngắn “Người đã được đặt lên cân...” của Đ.Đranin, tai hại hơn, người ta đã biến những cảm xúc chân thật của con người vốn không phải bao giờ cũng ngân rung lên được, thành một thứ phản xạ có điều kiện. Nhân vật phụ nữ ở Bộ Văn hoá khi phát biểu trước đám tang “giọng chị ta nghẹn lại” khiến cho một nhân vật khác “nhớ ra là cái giọng nghẹn ngào cùng với câu nói ấy anh đã được nghe chị ta nói hôm lễ tang ông đạo diễn nhà hát của họ” (1,227).
Không chỉ một mình chị phụ nữ nọ, các khuôn mặt đi đưa đám đều “thể hiện nỗi đau xót” y như nhau – các bà già thì “khóc khe khẽ một cách phải phép” – nhưng “rõ ràng là tình cảm ấy không chân thật, bởi tình cảm chân thật không giống hệt nhau và ở mỗi người phải thể hiện theo cách riêng” (1,227). Một nhân vật trong truyện đã nghĩ như thế. Rồi thì vẫn giữ nguyên vẻ mặt đau xót đó người ta nói với nhau những chuyện thô lỗ của cuộc đời ngay trong đám khóc. Vậy là có khác gì họ đang giết lần thứ hai người đã chết! Tiếp đó người ta tổ chức một bữa tiệc tang mà bàn ăn “tươi tắn, rạng ngời” đối lập hẳn với không khí của một “căn nhà rõ ràng là đã bỏ hoang lâu ngày” vì chủ nhân của nó đã bị “quên lãng”, “đã mất hút”, trong tâm trí của những người bên cạnh, “chẳng ai biết gì về ông cả” (1,231)... Như thế có khác gì người ta ăn mừng một ai đó chết (!).
Sự “phục hồi chủ quyền văn hoá của cá tính” không chỉ đòi hỏi con người sống tốt đẹp với nhau, nó còn đề nghị con người phải có thái độ nghiêm túc đối với môi trường sống. Truyện ngắn “Đôi mắt của con chó hoang” của A.Kim chính là đã đề cập đến mối quan hệ giữa con người với thế giới động vật quanh ta. Ở đây cũng có thể hiểu một cách không khiên cưỡng rằng rút cuộc con người đã xử sự với nhau phỏng theo cách cư xử của họ với các loài động vật. Bởi vì lô gích của hiện tượng đó sẽ là: “Bọn súc sinh ấy hôm nay hành hạ chó, đến mai nó chuyển sang đày đoạ trẻ con. Phải chăng chưa hề có chuyện như vậy...?” (1,299). Có thể coi đây là một phát hiện bởi lẽ: “Bản thân những kẻ hành hạ không đáng sợ – bề ngoài họ là những con người bình thường, trong đó thậm chí có cả trẻ em và phụ nữ nữa – cái tính chất ẩn nấp trong họ mới đáng sợ.” (1,297). Và một nhân vật trong truyện đã “cho rằng cái tính chất ấy chẳng khá hơn bệnh dịch hạch chút nào, bởi vì còn cái gì nếu như không phải tính hung bạo đã và đang sát hại biết bao nhiêu người trên thế gian này? Và khác gì lắm đâu, nếu như cái tính chất ấy bộc lộ ra không phải nhằm vào người mà nhằm vào con chó không biết nói”. (1,296 – 297). Tuy nhiên triết lý của câu chuyện mang màu sắc Phật giáo này quả tích cực hơn những tín điều nhà Phật khi trình bày sự thật: “Không phải tất cả bọn họ đều rõ ràng là những kẻ ưa thích tính tàn bạo, nhưng họ giống nhau ở một điểm là đều không có sự cảm thông. Người nào cũng đui điếc trước nỗi đau và cái chết của đồng loại. Mà chính họ cũng là những sinh vật trần thế và biết đau đớn” (1,297).
Vậy là không thể để quá muộn, truyện ngắn Xô viết đã cảnh báo sự xuống cấp của đạo đức con người và cấp thiết đòi hỏi một sự “phục hồi chủ quyền văn hoá của cá tính” trong xã hội hiện đại. Có thể hiểu sự “phục hồi” đó trên danh nghĩa là con người cần phải sống có văn hoá. Tuy nhiên sống có văn hoá theo góc độ Khổng Tử – “Cái gì mình không muốn thì đừng đem ra thi hành với người khác” – vẫn là chưa đủ. Khi cuộc đời còn chưa hoàn hảo, khi thực tế cuộc sống còn đầy bất công, còn nhiều phi lý,... con người chỉ “không muốn” làm điều xấu thôi chưa đủ, “chủ quyền văn hoá của cá tính” đòi hỏi anh phải tích cực hơn, phải dấn thân để cải thiện cuộc sống bằng chính cách đối xử của anh với mọi người, với mọi điều xung quanh. Nhiều truyện ngắn Xô viết đã chỉ ra cách đối xử có văn hoá của con người như  “Mẹ” (X.Baruzđin), “Xin cô tha lỗi cho chúng em” (lu.Bônđarép), “Epđôkia điên rồ” (A.Alêcxin), “Quả táo đỏ” (Ts.Aimatôp)... Và một số truyện khác, mang tính phản đề, cũng là gián tiếp đề xuất lối sống đẹp: ”Đôi bờ nước hẹp” (A.Grin), “Lý lịch” (X.Antônôp), “Con chó sói trong thành phố” (A.Iasin),...
Như vậy, xuất phát từ cuộc sống và quay trở lại phục vụ cuộc đời, đó là con đường tất yếu của văn học nghệ thuật. Nếu như cuộc đời chưa hoàn thiện, văn học nghệ thuật phải bằng những tác phẩm chân chính giáo dục con người năng lực cảm nhận sự thật, cảm nhận cái đẹp và cảm nhận nỗi đau của người khác (2), phải làm sao cho:
“Càng tăng thêm nhận thức.
Càng phải giảm bớt sự lạnh lùng
để số phận người khác
làm bạn đau hơn
số phận của chính mình”.
như lời nhà thơ Tiệp Khắc cũ, Mirôxlap Valêch. Truyện ngắn Xô viết với phạm vi quan tâm sâu rộng của nó là những bức thông điệp gửi tới con người hôm nay, ngày mai. Trên ý nghĩa đó, sự “phục hồi chủ quyền văn hóa của cá tính” mang một nội dung nhân bản lớn lao. Tuy nhiên, chỉ trong những xã hội mà ở đó có những chuẩn mực dù còn ít nhiều giáo điều nhưng phù hợp với đạo lý con người, sự “phục hồi chủ quyền văn hóa của cá tính” mới có đất nảy nở bởi vì nó chính là sản phẩm của một trật tự xã hội đã tạo điều kiện cho con người sống vì mọi người và mọi người vì mỗi người. Chủ nghĩa xã hội được khai sinh từ Cách mạng Tháng Mười, dù còn xa mới đạt đến cái đích cuối cùng của mình, cũng đã là ngọn cờ cổ vũ loài người tiến bộ trên chặng đường vươn tới một cuộc sống tiến bộ, hài hòa. Biết bao hoài niệm tốt đẹp về một mẫu hình chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xô viết vẫn nung nấu tâm can những con người yêu chuộng tự do, bình đẳng, hữu ái. Truyện ngắn “Tảng đá bỏng” của A. Gaidar chính là ký ức của cộng đồng về thực thể Liên Xô xã hội chủ nghĩa. Nhân dân tiến bộ nước Nga, dù những cám dỗ của tảng đá thần kỳ, vẫn như ông lão kia, không hề mong muốn đập vỡ tảng đá để bắt đầu làm lại cuộc đời, một cuộc đời “phá bỏ các dãy rào và xây chiến lũy, nổi lên chống lại Nga hoàng” (1, 197), “bởi vì con đường đời ông đã đi qua là con đường gian khổ nhưng sáng sủa và ngay thẳng!” (1, 197) và nhất là nếu như ta đã có một cuộc đời, mà ta đã “không biết sống cho ra sống, không thấy rõ hạnh phúc của mình” thì làm lại cuộc đời khác để làm gì!

NGUYỄN THỊ MỸ LỘC
(nguồn: TCSH số 154 - 12 - 2001)

---------------------------------------------
* Nhiều tác giả – Truyện ngắn Xô Viết (1917 – 1987, Tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội, 1987,
(1) Chữ dùng của Aimatốp.
(2) Ý của Hoàng Ngọc Hiến

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.