Song tử tràn đầy nghịch lý

07:57 21/03/2017

NGUYỄN THỊ THANH LƯU

Đã từ rất lâu rồi, tôi hài lòng với việc đọc thơ trong màu xám của một nỗi tuyệt vọng - nỗi tuyệt vọng không bao giờ phân tách nổi trắng đen giữa đám sương mù xám đặc dường như chỉ có dấu hiệu đậm dần lên trong những lớp lang chữ nghĩa, trong cách ngắt nhịp, buông vần.

Tôi đọc Song Tử của Quỳnh cũng trong cùng đám mây tuyệt vọng đó, với tâm thế của một kẻ mộng du lạc bước vào chốn mơ của một kẻ mộng du khác.

Vừa bước vào vườn thơ đã “Vỡ ngực” vì những xúc cảm kì lạ của người thơ, may mắn là trước khi chết ngất trong những dòng thơ úa tàn mệt nhọc, linh hồn tôi được vực dậy bởi những câu từ tha thiết nồng nàn của “Thư viết cho người yêu” trước khi đi loanh quanh mãi không thoát ra khỏi phần kết đậm màu sắc suy tư mang tên “Song Tử và thi ca”. Không rõ có phải là tác giả đã tiên liệu được những gánh nặng xúc cảm mà tập thơ mang tới cho độc giả hay không mà kết cấu tập thơ đầy dụng ý thế kia?

Cũng chính cách kết cấu bất thình lình với những khúc quanh hiểm hóc đó mà tôi xin thú nhận là tôi đọc mãi tập thơ suốt mấy tháng trời nhưng vẫn cảm thấy mình chỉ là một người đi lạc chưa tìm thấy lối ra. Thơ Như Quỳnh de Prelle không phải là thứ thơ êm ái, dễ dãi, đọc trôi tuồn tuột. Trái lại, nó tràn đầy nghịch lí: nghịch lí cảm xúc, nghịch lí ngôn từ, nghịch lí ngắt dòng, nghịch lí cấu trúc. Người đọc hoang mang vấp váp chính mình trong những chuỗi nghịch lí hiển nhiên phô phang ấy mà không khỏi hoài nghi về một sự sắp đặt quá tinh vi của người viết. Cứ vấp lại phải quay lại, đọc cho vỡ từng chữ. Những cú vấp trong vườn thơ âm u của Quỳnh khiến độc giả không thể cứ thế mà khoan thai dạo bước. Mỗi bước đi trong vườn thơ của Quỳnh là một dò dẫm, đòi hỏi suy tư cật lực, tiêu rút xúc cảm đến kiệt cùng. Nhà thơ Charles Simic quả không sai khi cho rằng: “Nghịch lý là gia vị bí mật của thơ. Không có vô số điều mâu thuẫn và ngạo mạn, thơ sẽ nhạt nhẽo như bài giảng ngày Chủ nhật hay bài phát biểu thông điệp liên bang của tổng thống”. Quỳnh - với sự nhạy cảm hồn nhiên của một người mới đến với thơ, dường như đã bắt nắm được thứ gia vị đặc trưng đó của thơ để viết ra những dòng lãng đãng thơ mà như không thơ, những rủ rỉ tâm tình ngăn ngắt hoang mang và yêu đương khờ dại cuộc đời.

trong cái lạnh lẽo của mùa hè tháng 7
nàng bước ra dưới cái nắng hiếm hoi của xứ sở ôn đới hiền hòa
để làm cháy đi làn da châu á
để cạo hết nỗi buồn trên gương mặt, trên cơ thể, trên tóc và răng của nàng
mọi bộ phận đang chết lâm sàng và lặng yên lặng yên
như đang chờ một kết quả cho một hy vọng mong manh
mong manh

            (Nắng không thể cạo hết nỗi buồn của nàng)

Động từ “cạo” khiến tôi rùng mình y như cái rùng mình dưới cơn nắng lạnh phi lí của mùa hè trong thơ. Cũng thế, tôi rùng mình vì nỗi buồn thảm thiết của “nàng”. Nếu đã lỡ dấn bước vào khu vườn bí ẩn Quỳnh thơ, bạn sẽ thấy rùng mình là cảm giác thường trực.

Đọc thơ Quỳnh không phải để vui, để say sưa rồi quên như quên một cảm xúc hời hợt bột phát nào đó bởi thơ Quỳnh khiến người ta mệt lử vì nỗi buồn và niềm tuyệt vọng.

Những cơn thở dài bao lâu có một lần
lòng người như gió cuốn cuốn đi vì lòng người quá mỏng mà thôi
gió chả vô tình vô ý
đâu đủ đậm sâu giữ lại cho riêng ai
ban phát tung tóe giả vờ yêu đương
như những kẻ điên trên những đôi mắt kính khác màu
đầy hiểu biết và thông dụng
giàu có và hơn người
toan tính quẩn quanh
triệt tiêu cái này để có cái kia

 
Ôi những cơn thở dài chết tiệt
nó làm cho một ngày cúi xuống tận đáy mồ sâu
tự chôn mình, chôn cả linh thiêng, tận hiến

                        (Một buổi chiều mùa hè)

Buổi chiều mùa hè trong thơ Quỳnh mới ngột ngạt làm sao giữa đông đặc những động từ mạnh và những tính từ tàn úa. Trong sự cùng quẫn của cảm xúc tiêu cực, nhân vật trữ tình đã để tiếng thở dài đào mồ chôn chính trái tim và tình yêu của mình. Giữa mùa hè, mùa của sinh sôi, nấm mồ tinh thần ấy đột nhiên trở nên phi lí hết sức. Thế là, người đọc đã bị đánh lừa ngay từ cái tiêu đề dịu dàng của bài thơ.

Cũng thế, dù chưa từng có duyên gặp mặt người thơ, tôi đồ rằng, vẻ mong manh của Quỳnh chẳng mảy may giống những câu thơ buốt chật linh hồn mà Quỳnh viết. Thơ Quỳnh trong nỗi tuyệt vọng quá đỗi đàn bà không ít lần khiến ta rã rời thân xác vì những ý niệm cuồng loạn, vì những cảm xúc thiêu đốt tận đáy sâu tâm can.

Những tình yêu mồ côi
sinh ra những tinh thần mồ côi vĩnh viễn
Những bài thơ ra đời
sự sinh sản vô tính của một nhà thơ nữ hoặc một nhà thơ nam
giao hợp bằng tinh thần khuyết tật đầy khát khao
(…)
họ không đối thoại với nhau
họ triệt tiêu nhau bằng im lặng phép lịch sự tinh thần của thế giới vô ngôn tưởng là thiền và có học đầy hiểu biết
họ im lặng giết nhau bằng thứ bạo lực không âm thanh không giai điệu họ trốn tìm nhau như những con thú ác
tình yêu thiêu hủy loài người
thiêu hủy bản năng tự nhiên và cái Đẹp
trở thành mù lòa
dang dở
ngay cả khi trên những đôi mắt kính lấp lánh niềm vui
tràn đầy thi ca
(…)
sự sinh sản vô tính, hữu tính, ảo tưởng
cái chết và sự sống
như anh và em
một cuộc tình thi ca dở dang
những bài thơ mồ côi
sự sáng tạo mồ côi
sự chia sẻ mồ côi
cả những bạn đọc mồ côi
tuyệt vọng đến bao giờ

            (Tình yêu thời này)

Nếu tình yêu là một thực thể, tôi tin là nó sẽ ngã quỵ ngay trước những dòng chữ kết tội sầu muộn bế tắc này. Quỳnh đã không còn tin vào tình yêu, không còn tin cả vào chữ nghĩa thi ca. Nỗi tuyệt vọng cùng cực đã đẩy Quỳnh đến những liên nối nặng nề giữa tình yêu, sự sáng tạo, nhà thơ và độc giả.

Nhưng may thay, giữa những tứ thơ siêu thực điên rồ, thơ Quỳnh vẫn còn những câu đẫm vẻ dịu dàng đời thường thế này:

lần đầu tiên nàng khóc trước đêm giao thừa
hoa thủy tiên trên bàn gỗ đã tàn
không nở vào lúc ấy
nước mắt của người đàn bà ngoài 30
như một đứa trẻ
nhớ nhà
(…)
nước mắt như một bông hoa héo
rơi xuống
lặng im
nước mắt rửa khô và hàn gắn
tình yêu tưởng như tan biến
tưởng như nát tan
giấu chặt

            (Giao thừa 16)

Song Tử có ba phần nhưng đọc phần nào, tôi cũng đều nhận ra nỗi khắc khoải của người viết trong mối liên hệ qua lại giữa tình yêu và thi ca, giữa chữ và người.

chữ xưng tội
với người
trong hư vô
chữ nhìn thấy sự phản bội
ẩn náu tương sinh
trong hàm tương khắc
sinh khắc trong chữ như nhau
chữ biết tất cả bí mật
sự vô thức
cái chết ngập tràn
sự sống trong phút giây
vụt tắt

            (Tình chữ)

Xuyên suốt tập thơ Song tử của Như Quỳnh de Prelle là bầu không gian của linh hồn với những ý nghĩ vốn ẩn nấp nhưng bị đào xới lên không thương tiếc. Chính vì cái không gian vừa mở vô biên vừa bó kín ấy mà thơ Quỳnh vẫn là khu vườn bí mật. Dường như Quỳnh, trong một nỗ lực bất thành hoặc một sự cố tình sắp đặt đã cố gắng dẫn thơ về quỹ đạo thường hằng của vũ trụ bằng những nhấn mạnh về mặt thời gian. Ngay phần đầu tiên, tập thơ có hẳn một chùm thơ nối nhau, mỗi bài viết cho một tháng (Chào tháng 3 và những cái chết trong tưởng tượng, Nỗi buồn tháng 4, Tuyệt vọng tháng 5, Thư tháng 6, Niệm sinh tháng 7). Nhân vật thời gian xuất hiện khá thường xuyên trong tập thơ (mùa, ngày, tháng), như một níu kéo, một neo đậu để mọi ý nghĩ xa xôi đến mấy cũng còn chỗ quay về.

Vẫn trong đám mây mù ý niệm, tôi đọc thơ Quỳnh và cố gắng hiểu vì sao Quỳnh đặt độc giả vào những trạng huống tinh thần khác thường ở những thời điểm, thời đoạn tưởng như bình thường nhất. Ngoài chuyện cố tình gây hiệu ứng xung động mạnh cho độc giả bằng thứ gia vị nghịch lí, tôi vẫn cho là còn có lí do nào đó khác mang màu sắc cá nhân của người viết. Liệu có phải rằng, Quỳnh đang tự sự về mình, giữa một cuộc đời ấm êm, giữa những giây phút thanh bình nhất của đời thường, cô vẫn luôn tìm thấy điều gì đó nhói buốt tâm can khi tự đào sâu vào nội tâm của chính mình. Dường như, nội tâm cô vẫn luôn quẫy đạp đòi hỏi được sống kiệt cùng.

Tôi đoán chắc cũng chính vì tinh thần tự bứt phá và giải phóng ấy mà Quỳnh chọn lối thơ tự do, với cách ngắt dòng bất qui tắc, với nhịp thơ phóng túng. Đáng kể là tập thơ có sự góp mặt của thơ văn xuôi, với lối kết hợp ngẫu hứng của việc kể và việc tỏ bày trong hình hài của một tự sự thơ.

Nàng cắt từng ngọn cây non trên hàng rào xanh như ngọc của mùa xuân đang hết dần
từng ngọn từng ngọn một, từ cao đến thấp, từ xanh già đến xanh non
cho thật bằng nhau cân đối của khuôn hình hàng rào như một bon sai sắp đặt
sự tỉ mỉ của việc làm vườn cho nàng ngưng lại những ý nghĩ điên loạn trong thoáng chốc
rồi nó lại bừng lên rạng rỡ sự sáng tạo không ngừng nghỉ trong 2 bán cầu não của nàng và 2 trái tim bập bùng như lửa

            (Làm vườn 1)

Như Quỳnh de Prelle, có lẽ cũng đồng điệu với Charles Simic - nhà thơ người Mỹ khi coi những bài thơ văn xuôi là “kết quả của việc cố gắng thoát khỏi bản thân”, là “tự do khỏi trí tưởng tượng và bộ não của chính mình, dấn thân vào cuộc phiêu lưu với những hệ quả không thể lường trước”. Tuy nhiên, thơ văn xuôi của Quỳnh chưa phải là “đứa con quái đản của hai chiến lược không tương thích, trữ tình và tự sự” bởi trong những câu chữ mềm mại du dương được cố tình kéo dài trên đây, tôi vẫn nhận ra một thứ nhịp điệu của cảm xúc khiến phần thơ vẫn là phần dẫn dắt.

Dù đã đọc đi đọc lại tập thơ không biết bao nhiêu lần, tôi vẫn luôn cảm thấy bị bao vây khi cố gắng đột nhập thế giới của riêng Quỳnh bởi thứ chữ lắm khi cố tình giấu nghĩa nhưng lại tuôn bất cẩn không dè chừng không lấp liếm, không giấu che. Mỗi bài thơ hãy còn là một thử thách với riêng tôi.

Sài Gòn, 28/11/2016
N.T.T.L  
(TCSH337/03-2017)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.