LÊ MẬU PHÚ
Tùy bút
Sông Hương bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, chạy dài hơn 60 cây số, qua nhiều rừng núi với thảm thực vật nhiệt đới đa dạng và nhận nhiều nguồn nước từ những con thác, rồi sau đó hợp lưu tại ngã ba Bằng Lãng thành một dòng sông, gọi là sông Hương. Từ đó, sông xuôi về biển thêm 30 cây số nữa.
Minh họa: NHÍM
Hai bên dòng sông có nhiều làng mạc, đô thị có từ thời xa xưa tạo nên một nền văn minh Thuận Hóa kế thừa và phát triển cho đến ngày nay. Điều đặc biệt là dòng sông đã cưu mang và nuôi dưỡng người Huế, vì thế người dân sống quanh vùng châu thổ xem sông Hương như Mẫu thần, bằng một huyền thoại sinh ra chùa Thiên Mụ; và sau khi chảy qua địa phận núi Ngọc Trản, nước sông xanh và một huyền thoại nữa về chén ngọc của nữ thần, ngày nay còn điện Hòn Chén. Dọc theo đôi bờ sông Hương có nhiều chùa chiền, đền đài miếu vũ, có lẽ thời xa xưa là nơi cầu nguyện của dân làng vào buổi bình minh, chính vì vậy mà ngày nay dân Huế có tục phóng sanh đăng. Những gì mà dòng sông Hương mang trong mình là một huyền bí, là một sự chở che thiêng liêng, là sức sống nhiệm mầu của người dân xứ Huế.
Thuở nhỏ, lũ bạn tôi rủ nhau đi tắm sông Hương, mọi người kháo nhau ai bơi qua bên kia bờ thì vượt qua được kì thi tốt nghiệp, không biết có đúng hay không, cả bọn đua nhau bơi, ai cũng qua đến, kẻ trước người sau, thế mà cuối cùng cả bọn đều đậu tốt nghiệp. Lớn lên, sau khi thành đạt ở đời, chúng tôi hẹn nhau ra bờ sông Hương ngắm cảnh uống nước, càng về khuya, sau khi tiếng máy thuyền tàu đã ngừng hẳn, mặt sông yên lặng, nước lững lờ trôi, mọi người hết nói chuyện, chúng tôi ngồi lắng nghe dòng sông thì thầm, dòng sông có tiếng nhạc, tiếng nhạc như tiếng nhạc trời, chỉ khi không gian thật yên tĩnh và tâm hồn người lắng đọng mới có thể nghe được âm thanh này. Âm thanh tiếng nhạc khác với âm nhạc bình thường, nghe du dương và lạ, dường như tiếng nhạc được dòng sông chuyển tải từ trời mang về hạ giới.
Người Huế có nhiều cách giải thích vì sao dòng sông có tên là sông Hương, cũng có nhiều sử liệu ghi chép cẩn thận, đi ngược lên thượng nguồn còn phát hiện loài cỏ Thạch Xương Bồ có hoa thơm hòa vào nước sông, thậm chí có nhiều huyền thoại về mùi thơm của nước sông. Nhưng có “một huyền thoại vọng về từ làng Thành Trung, một ngôi làng trồng rau thơm ở Huế: Vì yêu quý con sông xinh đẹp, người dân hai bên bờ sông Hương đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước xanh thắm ấy mãi mãi thơm tho.” Nghe qua có vẻ là huyền thoại, nhưng nếu chúng ta suy ngẫm kỹ sẽ thấy, đây là một sự thật chứ không phải là huyền thoại chút nào. Trong Phật giáo việc dùng hương hoa và các thứ dầu thơm để cúng dường là một việc làm thể hiện sự cung kính và lòng chí thành trong việc câu nguyện và tích phước. Hơn nữa người Huế có tục tắm sông vào buổi sáng, hiện nay chỉ còn tại bến Me, còn những bến khác hầu như vì ô nhiễm cho nên người dân không duy trì được. Người dân từ xa xưa đều làm vậy để dâng lên mẫu thần và cầu nguyện vào mỗi buổi sáng hừng đông. Điều này chẳng khác mấy việc người Ấn vào mỗi buổi sáng sớm đến dâng hoa và dầu thơm vào dòng sông Hằng, cầu nguyện, tắm và tẩy rửa hồng trần lẫn cả tâm linh, cầu mong được giải thoát. Những ai sau khi chết, được thiêu bên bờ sông và thủy táng trên sông Hằng là một điều vinh dự, biểu hiện sự siêu thoát. Họ xem dòng sông như một nữ thần (God- ness) và dòng sông làm chiếc cầu nối giữa trời và cõi dân gian.
Mỗi con sông đều có đặc tính riêng, tùy thuộc vào dòng chảy và tiềm năng của nó, con người có thể dựa vào đó để sinh sống, tưới tiêu, nước uống và giao thông. Xét về mặt hữu ích sông Hương có đầy đủ các tính năng nuôi dưỡng và che chở cho sự sống, cho nên được tôn xưng như một bà mẹ hay Mẫu thần. Ngược lại, có nhiều dòng sông với nguồn nước đục, dòng chảy xiết, có thể gây nên nhiều sự đe dọa cho cư dân sinh sống và xây dựng đô thị ven sông. Chính vì thế mà sông Hương được người dân xứ Huế tôn vinh như một Nữ thần và tục lệ cầu nguyện trên sông chính là nguồn mạch tâm linh cho sự sống. Cho nên sông Hương còn có thể gọi là Linh Giang hay sông Linh.
Điều đặc biệt là sông Hương chảy đến đâu, làng mạc và cư dân chan hòa đến đó. Dòng sông đã mở ra nguồn thiêng của sự sống của người dân và tâm linh của họ. Sông Hương còn chia sẻ buồn vui với người dân xứ Huế, ôm ấp như mẹ ôm con. Sông Hương cũng là một bản hùng ca gắn liền với lịch sử oanh liệt của dân tộc. Qua bao thăng trầm của lịch sử, sông Hương là niềm tin và an ủi của người dân. “Chiều chiều trước bến Văn Lâu” là giọng hò bi tráng, khi cảnh nước mất nhà tan, có thể tâm sự và nói chỉ còn sông Hương, như người con cầu nguyện nữ thần che chở cho người ngược mái lên chiến khu theo phong trào Duy Tân. Cùng với sứ mệnh của lịch sử, sông Hương đã che chở cho những chiến sĩ cách mạng bình yên, để rồi khi ra đi, họ còn gọi tên “Hương Giang ơi!” như một lời cảm ơn đối với một mẫu thần che chở.
Trở lại đầu nguồn, nơi nhập lưu của hai dòng Tả - Hữu Trạch, ở ngã ba Bằng Lãng, trên ngọn đồi Tứ Tượng, tượng đài mẹ hiền Quán Thế Âm hướng về dòng sông, trút cam lồ vào dòng sông, với ánh mắt từ bi trìu mến, cứu độ muôn dân. Nơi đây hội tụ của niềm tin tâm linh của người dân xứ Huế, biểu tượng từ bi cứu khổ, chỉ cần hướng về dòng sông cầu nguyện, tâm sự vui buồn của thế gian, nơi đầu dòng Bồ tát lắng nghe, thấu hiểu và chở che. Không ngẫu nhiên mà người xưa gọi dòng sông Hương là Mẫu thần hay Nữ thần, hoặc người bình thường đời nay gọi là người phụ nữ dịu hiền... đều thể hiện tính cách ảnh hưởng từ trái tim dịu dàng và lòng từ bi bất tận của vị Bồ Tát hi sinh cứu đời. Từ ngàn xưa cho đến ngày nay, người phụ nữ Huế có giọng nói nhẹ nhàng ấm áp, tính cách dịu hiền, cử chỉ đoan trang, khiến nhiều người khi đến Huế đều trầm trồ khen ngợi, cũng đều do ảnh hưởng tính cách của dòng sông Bồ Tát, người mẹ hiền của người dân.
Không những người dân xứ Huế hằng ngày nghe tiếng chuông trên đồi Hà Khê, mà những người khắp cả nước đều nghe “tiếng chuông Thiên Mụ” qua thi ca. Dòng sông Hương dịu dàng mang theo tiếng chuông sớm chiều chảy qua bao xóm làng và đô thị, nơi đó là niềm tin được chuyển đến, vun bồi và tô đắp văn hóa và văn minh hướng thiện. Sáng sớm mờ sương, tiếng chuông chùa vang vọng trong không gian, mang bình yên cho mọi loài; người nông dân với công việc đồng áng, người lên rừng, người về thành thị với công việc bề bộn đời thường đều bắt đầu từ tiếng chuông. Có một truyền thuyết cho rằng có một quả chuông rơi xuống sông Hương trước mặt chùa Thiên Mụ, to như quả chuông hiện còn ở đây, vớt không lên, đẩy không nổi. Nhưng quả thật chưa ai nhìn thấy quả chuông, hoặc chưa thấy một khảo cứu nào công bố, nhưng đây có thể là một dụng ý của người xưa, đem sự bình yên cho người dân sống trên hai bờ sông; ngoài ra còn một ý nghĩa khác, quả chuông này dùng để đánh cho người ở cõi âm nghe mà chuyên nghiệp quay về nẻo giác. Âm vang tiếng chuông do dòng sông chuyên chở hằng ngày là tiếng chuông hòa bình, âm siêu dương thái.
Ở Huế, có một nhà nghiên cứu cổ vật nổi tiếng, ông sưu tầm nhiều đồ cổ được người dân vớt từ dòng sông Hương. Phải nói rằng, dòng sông Hương còn là một kho tàng cổ vật quý giá, đây là một trong những nguồn khảo chứng về văn hóa Việt Nam nói chung và Thuận Hóa nói riêng. Còn hơn thế nữa, trong bộ sưu tập của nhà nghiên cứu còn có nhiều tượng Phật quý, chuông to chuông nhỏ, mõ to mõ nhỏ, chuỗi hột... được vớt dưới lòng sông, đúng là của thiêng trên dòng sông thiêng, một dấu ấn tâm linh hi hữu của dòng sông di sản.
Chúng ta được dòng sông che chở, nhưng chúng ta lại để mất điểm với di sản quý báu này. Đó là chúng ta tùy tiện khai thác, làm ô nhiễm nước sông và tiếng ồn của những chiếc thuyền máy làm xáo động vẻ yên tĩnh và dịu dàng của dòng sông. Muốn lấy lại điểm cho dòng sông, trên đoạn sông từ cầu Bạch Hổ đến cầu Trường Tiền, không được đánh bắt cá, vì cá trên đoạn sông này được ưu tiên; thuyền bè qua lại trên đoạn sông phải tắt máy, chỉ được phép chèo bằng tay hoặc chỉ chạy vào những giờ giấc cố định. Khi thành phố Huế được trả lại với không gian yên tĩnh, thời gian vắng lặng về khuya, tiếng ồn ào của những chiếc thuyền máy, phà chở vật liệu khai thác, xe hơi chạy ầm ầm trên phố đã ngừng hẳn, ngồi trên bờ chúng ta nghe được tiếng dòng sông Hương chảy rì rào cùng tiếng gió, sông Hương phảng phất mùi thơm trong sương mờ, càng về khuya càng cảm giác dòng sông đang thở, trở nên có linh hồn, có sự sống, sự sống linh thiêng.
Là người Huế, cho dù đi tha hương họ đều nhớ về sông Hương như một bà mẹ chở che; khi có dịp đi qua sông Hương, mỗi người đều nhìn ngắm vẻ đẹp của bà mẹ, vừa cầu nguyện một điều gì đó bình an. Thể hiện rõ nét nhất là phong tục phóng sanh đăng trên sông Hương vào những đêm rằm hoặc 30 âm lịch và vào những ngày lễ lớn và lễ hội Phật giáo. Đặc biệt vào ngày lễ Phật Đản, sông Hương lung linh huyền ảo dưới ánh trăng ngập tràn đèn hoa, hòa cùng với lời câu kinh và bài ca Đóa Sen Trắng trầm hùng cất lên trong giờ phút bảy đóa sen được thắp sáng, hàng ngàn hoa đăng thả bềnh bồng theo dòng nước, lâp lánh sánh với ngàn sao. Sông Hương trở thành dòng sông Hoa, bảy hoa sen tỏa sáng, tạo cho Huế, cho dòng Hương một chiều sâu tâm linh thiêng liêng, đem lại cho lòng người một cảm giác bình an, sâu lắng. Dòng sông như rộng hơn, sâu thẳm hơn và mang một vẻ đẹp vừa lung linh vừa huyền bí.
Mùa Phật Đản thành phố rợp cờ đèn, xe hoa, thuyền hoa, bảy hoa sen lớn, hàng ngàn hoa đăng trên sông Hương, tạo thành một bức tranh hoa lung linh, quyện với hoa hương thiên nhiên mà sông Hương mang về, làm cho thành phố Huế trở nên thơ mộng, dòng sông Hương trở nên thiêng liêng huyền bí. Những phong tục thắp sáng hoa sen, thuyền hoa, phóng sanh đăng, tụng kinh cầu nguyện... đây không phải là việc “đến hẹn lại về” mà là một truyền thống văn hóa Huế xuyên suốt thời gian và không gian, nối thực tại với quá khứ, nối trần gian với cõi thiêng, nối văn hóa tâm linh hiện tại với quá khứ huy hoàng của dân tộc. Mỗi lời cầu nguyện và mỗi ngọn đèn hoa là một sự tỏa sáng trong tâm hồn của người dân xứ Huế hướng về điều thiện, hướng về dòng chảy tâm linh cao quý mong cho nhân loại hòa bình, trước sự che chở của dòng sông Bồ Tát, dòng sông Mẫu thần, dòng sông tâm linh.
L.M.P
(SH279/5-12)
CHÂU THU HÀ
Trong những năm qua, xây dựng văn hóa doanh nghiệp (VHDN) đã và đang được các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng quan tâm thực hiện.
PHƯỚC VĨNH
Nói đến những tiềm năng phát triển của Huế là nói đến các yếu tố thiên nhiên, lịch sử văn hóa, trong đó có yếu tố sông, núi, cỏ cây và con người; là nhắc đến những bài thơ sâu lắng, những giai điệu mượt mà…
LGT: Cuốn sách Florette ou la rivière des parfums của tác giả T. Trilby(*) được dịch sang tiếng Việt với nhan đề Chuyện bên dòng sông Hương(**). Bối cảnh câu chuyện xảy ra ở Huế và vùng phụ cận vào thập niên 1920 của thế kỷ XX.
LƯU TRỌNG VĂN
(thực hiện)
PHAN THUẬN AN
Nghệ thuật cung đình là những loại hình nghệ thuật gắn bó thiết thân với sinh hoạt tinh thần và vật chất của giới cầm quyền tại kinh đô dưới các triều đại quân chủ ngày xưa.
PHAN TÂN
Trong năm 2018 vừa qua, ngoài kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh cũng đã triển khai những chương trình đột phá, công trình trọng điểm, tập trung lãnh đạo, tạo tiền đề, động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương phát triển theo hướng nhanh, bền vững. Các chương trình này có ý nghĩa hết sức quan trọng, tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương…
NGUYỄN VĂN CƯƠNG - NGUYỄN VĂN KHÁNH
Trong chuyến đi điền dã khảo sát di tích tại khu vực Phường Thủy Xuân, TP Huế. Chúng tôi tình cờ phát hiện một di chỉ cổ nằm lẫn khuất trong những tán cây rậm rạp trên vườn đồi của làng Dương Xuân thượng trước đây. Vạch lá dò dẫm tìm vào, chúng tôi mới nhận ra nơi mình đặt chân đến chính là một Văn Miếu, nơi thờ phụng vị Thánh về Văn, người mà được hậu thế tôn vinh là Vạn thế Sư biểu (người thầy của muôn đời), Đức Khổng Tử. Ngôi miếu nằm lọt thỏm trong những tán lá, bụi cây.
HỒ VĨNH
Đại bác là một từ dùng chung cho tất cả các loại trọng pháo hay súng lớn. Tiền thân của chúng là những máy ném đá (Thạch pháo) ra đời cách đây 1.000 năm. Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII ở Việt Nam đã xuất hiện các loại pháo bằng đồng và pháo bằng sắt mà ngày nay chúng ta thường gọi là súng thần công.
KIM THOA
Chè bán ban ngày, ban đêm. Chè gánh, chè xách, chè ăn trên bờ, chè thưởng thức dưới đò. Huế bán đủ thứ chè, bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, nhưng ít thấy chè hột sen.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Hoàng tử Cảnh (1780 -1801) là con trưởng của vua Gia Long. Trong thời gian chống nhà Tây Sơn, hoàng tử Cảnh đã theo Bá-đa-lộc sang Pháp cầu viện cho họ Nguyễn. Hoàng tử Cảnh theo Thiên chúa giáo và được giám mục Bá-đa-lộc rất thương yêu.
THƠM QUANG - THANH BIÊN
Trong khối tài liệu hiện đang được bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV có khá nhiều tư liệu liên quan đến trường Bách Công xưa (tức trường Cao đẳng Công nghiệp Huế ngày nay). Bên cạnh tài liệu tiếng Pháp thuộc phông Tòa Khâm sứ Trung kỳ, chúng tôi cũng xin được cung cấp thêm một số thông tin quan trọng về trường Bách Công xưa được ghi chép trong các bộ chính sử của triều Nguyễn.
NGUYỄN THÁI SƠN*
Đồng chí Nguyễn Chí Diểu (1908 - 1939) là nhà lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam.
TRẦN ĐÌNH HẰNG - LÊ ĐÌNH HÙNG
Trải qua nhiều vấn nạn của thiên tai, địch họa mà đến nay, tài liệu nghiên cứu về thời chúa Nguyễn Đàng Trong rất hiếm hoi. Vì vậy, tài liệu lưu trữ từ gia tộc sẽ góp phần thiết thực để soi rọi một số chi tiết bổ sung cho chính sử.
LÊ VĂN LÂN
Huế là đô thị không chỉ trong nước mà cả thế giới tôn vinh với nhiều danh hiệu cao quý. Nhưng đứng trước những danh hiệu này, bản thân người Huế cũng thấy đang còn nhiều khoảng cách lớn.
LÊ QUANG THÁI
Ngày xuân còn dài, xin kể vài mẫu chuyện dê tiêu biểu trên đất kinh kỳ văn vật cốt chỉ mua vui chốc lát trong hương vị của ngày Tết cổ truyền.
PHAN THUẬN AN
Cũng như các triều đại quân chủ khác trong lịch sử Việt Nam, triều đại nhà Nguyễn (1802-1945) đã lập ra tại kinh đô một cơ quan chuyên trách về y tế, gọi là Thái Y Viện, để chăm lo sức khỏe cho hoàng gia và điều hành công việc chữa bệnh cho mọi người trong nước.
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Đồi Dương Xuân ở nam sông Kim Trà (sông Hương) từng có phủ Dương Xuân là mặc định nhưng vì đồi lại lớn rộng, có nhiều phần nhấp nhô theo phương thẳng đứng, uốn éo theo bình đồ nên đồi có nhiều gò, cồn.
TRẦN ANH SƠN
Huế mà chúng tôi nhắc đến ở đây là xứ Huế ngày xưa, thuở còn là "Đô thành Thuận Hóa” của Chúa Nguyễn.
VÕ VINH QUANG - HỒ XUÂN THIÊN - HỒ XUÂN DIÊN
CAO CHÍ HẢI
Nghệ thuật sân khấu, âm nhạc vô cùng phong phú và đặc sắc, nhiều lễ hội cổ truyền và thuần phong mỹ tục tiêu biểu của người Việt được lưu truyền đến Nghệ thuật múa của dân tộc Việt xuất hiện cách đây khoảng 4000 năm.