NGUYỄN VĂN UÔNG
Mùa hạ, mùa sen.
Sen kín mặt các hồ Tịnh Tâm, hồ hào thành quanh Thành Nội.
Ảnh: internet
Vào một chiều nóng nực ngọn gió Lào, có chút thư giãn trên nẻo đường qua các nơi ấy, thả mắt nhìn màu lá xanh bông trắng thanh khiết rập rình vũ điệu, đung đưa dáng nõn nà như vẫy chào ánh mắt đắm đuối nhìn theo. Rất nhiều tảng lá xanh tròn, có chiếc cao hẳn so với mặt nước như chiếc lọng che bóng những chiếc đàn em nhỏ nhắn ép sát mặt nước. Hoa sen vút cao khỏi tầng lá, những búp non mới nhú như hình bút tháp, lớn hơn thành búp sen và khi bung nở thành cả đóa sen bông trắng nhụy vàng. Chiếc xuồng tre nho nhỏ len lỏi giữa hồ sen, nhấp nhô chiếc nón trắng lung linh trên mặt hồ lá sen xanh trông như một búp sen khổng lồ.
Chiếc xuồng tre và cô hái sen chỉ xuất hiện mỗi tháng vài lần vào các ngày trước rằm, mồng một hàng tháng hái hoa đem bán các chợ phục vụ nhu cầu tâm linh người dân thần kinh mộ đạo Phật. Ngoài thời gian ấy, sen cứ nở, cứ tàn để các đài sen lớn lên thành gương sen, kết hạt, một đặc sản Huế xưa.
Thế giới của sen chỉ tưng bừng về mùa hạ. Mùa xuân tháng giêng hai khi cái rét đài, rét lộc còn theo mưa phùn vờn vũ đám lá xanh non mùa xuân, mai đào rụng cánh, tàn hoa, ngoài vườn cây trái ngào ngạt hương hoa cau, hoa khế, hoa cam, quýt, bưởi, chanh, cùng thược dược, vạn thọ trong bồn khoe sắc thắm, thì sen còn ngái ngủ dưới lớp bùn sâu. Cuối xuân vài tấm lá mỏng như chiếc bánh đa ngần ngại xuất hiện, ôm sát mặt nước hồ. Thế rồi ngày càng ấm hơi nắng hạ thì sen cũng nhanh nhảu chiếm lĩnh mặt hồ. Vài chiếc lá vút cao như lọng tán, rồi hoa, rồi cả một hồ sen bông trắng lá xanh rập rờn. Sang thu hồ sen chuyển từ xanh non sang màu ủ dột, hoa ít dần, vài chiếc lá già nua dần không đủ sức che kín mặt hồ để sang đông, sau đợt dọn hồ của người chủ hồ thì mất hẳn bóng sen. Hồ sen lúc này dềnh nước theo từng con lũ đổ về, ít bè rau muống như vẽ hoa điểm xanh mặt hồ vài đốm. Con chim bói cá trên cọc tre cắm bè rau muống chỉa cái mỏ dài như chiếc đinh nhọn và con mắt cú vọ xuống mặt hồ chờ mấy chú cá con động tịnh. Nhìn hồ sen lúc này tôi có cảm giác như tâm trạng anh chàng Vọi, một ngư dân quê mùa trong tác phẩm Trống Mái của Khái Hưng, thơ thẩn trên bãi Đồ Sơn một chiều đông giá vắng lặng, nhớ da diết về cô gái thị thành tên Hiền và những ngày hè nắng chói cùng hương vị ngái ngái rát môi của mùi thuốc đánh răng, thứ của văn minh thành phố lần đầu tiên Hiền mang lại cho anh.
Sen là một biểu trưng của Huế mùa hè.
Ngày còn bé, tôi có người bạn cùng lớp tiểu học ở cạnh hồ Tịnh Tâm. Tôi thường băng con đường xuyên giữa hồ nối đường Đinh Bộ Lĩnh và khu Thú Y để đến nhà bạn tôi. Con đường chia hồ làm hai phần, mỗi bên có một đảo cây xanh. Khi ấy phần đảo bên hồ lớn được trùng tu, một cây cầu bắc ra đảo, một ngôi nhà lục giác giữa đảo. Thầy dạy hát Ngô Ganh thỉnh thoảng dẫn chúng tôi ra đảo này tập hát, xem hồ. Nhà thầy ở góc đường Hòa Bình, gần hồ. Chúng tôi học hát thì ít mà chơi đùa thì nhiều. Thầy đã già, lũ nhóc chúng tôi như đám tiểu đồng giữa một tiên ông. Chỉ tiếc là tiên ông mặc áo vét tông và không có râu, tóc ông chớm bạc nhưng cắt ngắn đờ mi cua nên chẳng ra vẻ tiên chút nào. Đảo bên kia, gần phía chợ Cầu Kho um tùm cây trái. Chúng tôi nhìn sang cây xoài lủng lẳng vài quả đu đưa tòn ten nhưng không thằng nào có gan cóc tía dám vượt qua hồ tiếp cận. Cây sanh án ngữ trên con đường giữa khoảng cách hai đảo âm u cùng cái am lớn dưới gốc với nhiều câu chuyện truyền miệng li kỳ, rùng rợn khiến chúng tôi không dám lại gần. Mỗi lần lên cầu đi qua đảo, chúng tôi cúi đầu, bước nhanh. Vài sợi rễ phụ xỏa xuống đường vươn vào người, chúng tôi lách mình đi qua, không dám đụng đến.
Sen Tịnh Tâm ngày ấy chỉ có sen trắng. Tôi nhớ sen Tịnh Tâm từ hình ảnh mặt hồ dập dìu những đài sen trắng rung rinh trên tấm thảm lá xanh, mùi hương thoang thoảng mỗi khi cơn gió lướt qua mang theo làn hơi mát lạnh giữa trưa hè. Ngày ấy đã hơn 50 năm qua rồi.
Sen Huế không chỉ ở Tịnh Tâm. Có thể nói ở Huế nơi nào có hồ là có sen. Đi qua các cầu đá để vào các cửa Thành Nội ngày ấy, nơi nào cũng thấy nhiều sen dưới hồ. Một dãy các cửa thành tôi đã từng ra vào từ An Hòa, Chánh Tây, cửa Hữu đến cửa Nhà Đồ, cửa Ngăn, Thượng Tứ, Đông Ba… Mùa hè nhìn xuống hồ chỉ sen và sen.
Trên con sông Ngự Hà xuyên Thành Nội chia nước từ sông Bạch Yến phía tây, qua cống Thủy Quan đổ ra cống Thanh Long phía đông để hợp lưu sông đào Đông Ba, nhiều đoạn vẫn có sen. Hào thành quanh Đại Nội, nhất là phía trước cửa Ngọ Môn, cửa Hiển Nhơn cũng nhiều sen. Những hồ nhỏ trong Thành Nội như hồ Mân, hồ Tàng Thơ, hồ Xã Tắc… đều có sen nở mùa hè.
Sen trở nên quen thuộc trong nếp sống người Huế. Dâng hương cúng Phật có hoa sen, chén chè hạt sen. Ngày vui, giỗ tết… mời nhau chén trà sen Liên Tử Tâm. Mùa sen tàn, trẻ con được ăn củ sen có nếp và đậu xanh nhét vào ruột nấu chín thơm ngát mùi xôi. Tết có mứt củ sen từng lát tròn xiên xiên vừa ngọt vừa bùi vừa thơm béo ngậy. Sen quen thuộc với người Huế trong cả việc đặt tên cho những đứa con yêu. Nhà sang trọng, trí thức thì có các tên Bích Liên, Hồng Liên, Bạch Liên, Kim Liên, Ngọc Liên, Hương Liên… Nhà bình dân, nghèo khổ vẻn vẹn chỉ gọi một tên Sen. Dù Liên hay Sen thì cũng dành riêng cho con gái. Ít thằng con trai Huế nào được cha mẹ đặt tên từ một loài hoa.
Hoa sen hầu như chỉ được dâng cúng nhiều trong các lễ nhà Phật. Những nơi đình chùa, lăng miếu, thừa tự trang nghiêm thường được thiết kế có hồ sen như là một bình phong che chắn trước hướng trực đạo. Bình hoa sen khi cắm còn búp và được thay khi sen nở bung cánh. Sen cắm trang trí phòng khách thường có thêm vài lá sen mới nhú khỏi mặt hồ, còn cuốn tròn chưa trải mặt lá. Người uống trà điệu nghệ mang hương vị sen vào chén trà bằng nhiều cách công phu. Có người dùng nhị sen ướp với trà, có người chiều đem trà ủ vào đóa sen mới nở, sáng sớm mai ra hồ sen bốc trà vào ấm, có người chỉ dùng Liên Tử Tâm là loại trà chế biến từ tim mầm hạt sen có công dụng bổ tâm, tráng khí. Bằng cách nào thì người kỳ công cũng cố lấy cho bằng được những giọt sương đêm đọng trên lá sen giữa hồ làm nước pha trà mới là dân sành điệu. Sen là biểu tượng nét đẹp tâm hồn thanh khiết của người quân tử khi vị ngộ gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Sen nâng bước đi đầu đời cho đấng Giác Ngộ ngày đản sinh qua 7 tòa sen trong truyền thuyết nhà Phật. Đoàn thanh thiếu niên gia đình Phật Tử đã mượn hình ảnh đóa sen vàng 5 cánh cách điệu làm biểu tượng cho đoàn thể mình.
Có chuyện kể về một người con gái nhà gọi tên là Sen, thực ra là Ngân Liên trong khai sinh. Nhà gần hồ sen, cô thích cắm hoa sen lên bàn thờ trong những ngày cúng Phật. Thói quen này cô tiếp thu từ bà mẹ nhân từ khi còn rất bé. Một cậu học sinh trọ học gần đó thường lui tới nhà chơi khi cô còn là học sinh tiểu học. Đôi khi cậu còn chở cô đi học trên chiếc xe đạp giàn. Xe không có yên phụ, cô bé phải ngồi trước giàn xe trong vòng tay ghi đông của cậu con trai trung học. Thế rồi cũng đến ngày biết e thẹn, cô không để cậu chở, mặc dầu mấy năm vào trường trung học xa nhà cô hơn. Một buổi cậu đến nhà chơi kèm cặp cô bé vài môn học bỗng dưng cậu thấy ngập ngừng trước ánh mắt khác lạ của cô bé. Ánh mắt ấy cậu đã nhiều lần nhìn thấy nhưng không như hôm nay. Buổi học hôm ấy chỉ vu vơ tủn mủn. Cô bé bắt đầu giữ ý tứ nhiều hơn mỗi khi cậu đến nhà. Bạn bè cùng lứa trong xóm thường ghép tên cô và cậu thành Đàm Liên, có đứa còn trêu là Đầm Sen. Cô ngúng nguẩy chối từ nhưng đầy những trang vở trống của cô nơi nào cũng có hai chữ ghép Đ-S lồng vào nhau với nhiều kiểu cách. Một buổi sáng, tình cờ người mẹ thấy môi cô bé có vài vết tím bầm, dấu hiệu của tình yêu vụng về ban đầu. Mẹ càng nhìn bé càng lúng túng. Bà nhẹ nhàng bảo con trân trọng bản thân và thận trọng với những cảm xúc đầu đời. Cô bé rớm nước mắt gục đầu vào vai mẹ. Cậu Đàm chuyển chỗ trọ xa nhà cô bé nhưng thỉnh thoảng vẫn thường gặp nhau. Thời gian sau, cậu đi xa, cô bé lấy chồng theo ý bố mẹ sắp đặt. Sau hơn 10 năm chung sống, cô từ chối theo chồng ra nước ngoài, ở lại lẳng lặng một mình nuôi con. Đến ngày nghỉ hưu, đứa con gái đã có chồng ở xa, cô xuống tóc tu tại gia. Nhà cô trở thành lớp học tình thương ban đêm cho mấy cháu học sinh con nhà lao động nghèo trong xóm. Mấy cháu nhỏ gọi tên cô giáo Sen, dân trong xóm gọi là Ni Cô Đàm Liên. Trong nhà cô vẫn treo trang trọng tấm hình của cô và người chồng cùng đứa con gái những ngày còn trẻ trung, hạnh phúc cạnh bức tranh một đầm sen trắng có nhiều hoa nở bung. Đến mùa sen, trên bàn thờ Phật cô cắm những búp sen. Trên chiếc bàn nhỏ làm việc ở góc phòng luôn có một đóa sen trắng nở bung cánh, lộ rõ nhụy vàng.
Cô Sen ngày ấy nay ở một nơi xa hồ sen. Mỗi lần ngắm hồ sen mùa hạ tôi lại nhớ câu chuyện về cô. Những năm gần đây, mỗi lần nghỉ hè có dịp ra Huế, tôi thường hóng gió hồ sen. Nhà tôi trong Thành Nội nên tiếp cận các hồ sen cũng thuận tiện. Sen Huế nay có nhiều sen hồng mọc cao hơn sen trắng. Hồ sen bị lấp cạn dần, nhiều hồ bị ô nhiễm vì cư dân sống quanh hồ. Ngày xưa, trong hồ sen có bè rau muống cạnh tranh đất sống với sen, nhưng còn ít, sen vẫn chiếm ưu thế trong sông, hồ thành phố. Ngày nay, các hồ sen ít dần đi, dân lấn hồ làm nhà, bè rau muống lấn nơi sinh trưởng của sen. Nước các hồ cạn đến lớp bùn. Người ta trồng rau muống vì bán có giá hơn sen. Nếu đem tính toán theo một con tính của nhà kinh tế ngày nay thì giá trị sen không bằng giá trị rau muống. Mỉa mai thay!
Vẻ đẹp Huế sẽ thế nào khi các hồ không còn sen. Người yêu Huế phải làm gì để giữ “vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được” này cho mai sau.
N.V.U
(SDB13/06-14)
HÀ MINH ĐỨC Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.
BĂNG SƠN Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.
PHAN THUẬN THẢO Chiều chiều trước bến Vân Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông. Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non. (Ưng Bình Thúc Giạ)
LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!
BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm
MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.
VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.
HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.
MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.
VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.
NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.
TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.
TÔN NỮ KHÁNH TRANG Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.
TRƯƠNG THỊ CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.
NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.
BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.
NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.
PHAN THUẬN AN Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương. (Bùi Giáng)
NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.