Sáng hôm ấy

09:40 29/12/2009
NGUYỄN PHƯỚC THỊ LIÊNKhông ai ngờ trước kia nơi đây chỉ là bến đậu tự phát của mấy tên thương hồ tứ xứ tới lui mua bán, ngủ nghỉ trong những căn lều che chắn tạm bợ. Và quán cóc. Nay đã thành một công viên sông, có con đường lát gạch khá rộng chạy ra tới biển mà bên dưới là bờ kè bảo vệ, bên trên là thành lan can inox chắn giữ.

(Ảnh: Internet)

Ghế đá tân kì, thoạt trông như thân gỗ được kê dài, giúp người dạo cảnh có nơi nghỉ chân. Tất nhiên cây xanh không thể thiếu, sang trọng là loại kì hoa dị thảo mua ở xứ người… Và đây chính là nơi tốt nhất để mấy cụ ông cụ bà đến tập thể dục, rèn luyện gân cốt, vớt vát tuổi thanh xuân. Họ sinh hoạt ý chừng đã năm năm với tên gọi: Câu lạc bộ Thể dục dưỡng sinh Thanh Xuân (thật ra là Hậu Thanh Xuân).

Nói cho đúng, bây giờ con đường dễ thương dễ mến đó có đôi chỗ bị lún sụp làm nứt lở những viên gạch lát nền, có nơi vỡ vụn như xà bần. Nó vô tình là chiếc bẫy con nhắm vào những ai vì sức khỏe, phải đi bộ sáng-tối. Lạ lùng thay, có đoạn tự dưng mặt đường được nâng lên rồi hạ xuống như sóng lượn. Ghế đá công viên nên thơ, lãng mạn như thế đó cũng bị kẻ hâm mộ di dời, kê chắn thành chỗ tụ nhậu hay nằm chơi… xơi nước. Quá khích. Có cái bị sứt gọng gãy càng. Chênh vênh. Khập khiễng. Đứng, quì khong ra dáng.

Đội hình thay đổi đến chóng mặt.

Bà Huỳnh, thường được gọi là Huỳnh Dở Hơi tần ngần một lúc ngay chỗ của mình rồi vụt hỏi khơi khơi: “Tôi đứng ở đâu đây?” Không một tiếng trả lời đích xác. Sau lưng bà, hàng loạt câu xầm xì:

- Có mỗi chỗ đứng, lần nào vô tập cũng hỏi.

- Sắp sửa trình diễn, mỗi bài có một đội hình riêng. Sao nói hoài mà không chịu nhớ.

- Trình diễn mấy bài, bài nào trước, bài nào sau chắc cũng không biết.

Lời châm chọc như châm dầu. Huỳnh Dở Hơi bỏ ngoài tai hết. Bà mải miết nhìn ra dòng sông trước mặt. Sao sáng nay nước chảy dữ quá. Trong bóng tối chập choạng, ngọn điện bờ kè ngay sân tập giúp bà nhận rõ từng đám bọt nước đục ngầu, không biết mang từ đâu tới, trôi cùng cỏ rác, bọc ni-lông , miếng xốp, cả xác bình nước khoáng to nhỏ… Chiếc cầu phao chắn ngang sông, nằm sát mặt nước có còn đâu, chúng tha hồ chảy phăng phăng một mạch ra biển như điên như dại. Trông vui cả mắt. Nhưng rồi, tới đằng kia sẽ có “đứa” bị kẹt lại thôi, ngay dưới chân cầu, chỗ giáp ranh biển hay dưới mạn thuyền neo đâu đó.

Giờ đây, bà thấy sông quang đãng quá. Nó như rộng ra và dài hơn, nước thì mênh mông, ngập mắt, lại thấy dãy nhà cặp mé núi bên kia sông lùi ra xa, nhỏ nhắn xinh xinh, còn núi là một khối đen khổng lồ không thể so sánh, chận ngay tầm nhìn.

Trời vẫn chưa hửng sáng.

Khối đen bên đó khắc ngang một vệt sáng dài mờ ảo. Bà biết chắc đó là tượng Phật Nằm trắng toát trên sườn núi, dài gần trăm thước, cao hơn hai mươi thước, có khuôn mặt hiền từ dễ thương, nghiêng mình khép hờ đôi mắt hướng ve bên này chợ, sầm uất, náo nhiệt. Ngay tắp lự, cũng từ bên đó vọng sang tiếng những con gà rừng gáy te te rồi những con gà nhà, giật mình vỗ cánh gáy theo, gọi mặt trời lên.

Nước vẫn còn chảy xiết. Mênh mông quá.

Dạo này gần Tết, ghe thuyền, bo bo, vỏ lải chở đầy hàng hóa là trái cây, bầu, bí, chậu kiểng, bình hoa dồn dập đổ về đây để ra chợ. Chúng lướt qua mặt bà, thần tốc. Nhưng có khi chúng buộc phải biết điều là nhẹ nhàng nhường sóng cho những chiếc cánh ngầm chở du khách đang vô tư xả hết tốc lực. Hiền từ, điềm tĩnh nhất là những chiếc ghe bầu bự xự trùm kín thân chở đầy gạch đá… Vô vàn lượn sóng lớn nhỏ thi nhau đập vô bờ, ầm ào suốt.

Bầu trời từ từ sáng, vừa lúc trên cái ống “tà la” cạnh sân tập phát lên hát: “Bình minh đang lên… Chúng ta vui ngày mới. Trời xanh bao la, chim hót trên cao, một ngày mới đón chào. Một... Hai… Một. Một… Hai… Một” nghe sao rộn rã tươi vui. Bài hát mỗi ngày mỗi nghe, bà đâm ghiền đến thuộc làu. Đôi lúc vui miệng, bà hát theo quên bẵng mình đang tập trung cho bài thể dục của mình.

Phân tâm. Bà đi những đường quyền, đường kiếm, những “Song kì” với “Song lang” nát bét, không giống ai. Bị tập thể phản ứng. Bà quày quả thu gom dụng cụ, tê tái bỏ về, nói khơi khơi: “Tới giờ đi mần việc”.

Cầm tay Huỳnh Dở Hơi bước lên vẫy chào trong bài “Song kì” là bà Nhung Cô Đơn. Một người không còn cô đơn nhờ thích kể chuyện. Chuyện người thật, việc thật ở xóm bà, có khi là chuyện tình tay ba về bộ phim Hàn Quốc đang chiếu tối qua (ai cũng được xem), có khi là chuyện phim Việt Nam có cô này cô nọ đẹp-xấu, tánh tình thấy thương, thấy ghét… Bà Phụng nổi tiếng ham vui, xen vô phụ họa vài câu tiếu lâm nghe mận hiểu đào, toàn những sex làm ông Mười đỏ mặt tía tai, lẻn đi chỗ khác chơi. Bà vợ ông Mười, đứng hàng sau, cạnh ổng, vội vàng chắp tay lên ngực: “Mô Phật! Bữa nay rằm, không nói chuyện bậy bạ”. Ông Mười coi hiền vậy nhưng không phải vậy đâu nha. Đã có một thời ông làm bà điêu đứng, khổ sở. Trong đây ai chả biết: bữa đó bà vô sân tập, không giày dép, không một mảnh áo… đồng phục lại còn khóc hu hu. Bà nói: “Ông chồng tui thu gom mấy bộ đồ thể dục, với “đồ nghề” của tui đốt hết trơn rồi. Ông nhất định không cho tui đi tập. Mấy lần ra sân là tui trốn ổng…”

Ông chủ nhiệm từ tốn hỏi:

- Vì sao ảnh không cho chị đi tập hả chị?

Bà Mười vừa khóc vừa nói:

- Tức quá. Ổng nói đàn ông đàn bà vô Câu lạc bộ này coi không đàng hoàng. Tập gì mà đi đứng co cúm, tay quơ bên này quơ bên kia, xà quần một hồi rồi nói ôm cầu(*) là sao… Già rồi sao không đi chùa mà ra đây nhảy nhảy, cò cò, lại có nhạc giựt gân… tựa con nít. Chịu hổng thấu.

Tội nghiệp bà Mười. Nói đâu khóc đó, tấm tức như… con nít: “Mấy anh mấy chị làm ơn nói giúp tui để ổng cho tui tự do, thoải mái đi tập. Nhờ tập, chân tay tui cứng cáp trở lại, chớ trước kia tui bị tăng xông, méo miệng, liệt nửa người… Tui muốn ổng vô đây tập quá chừng.”

Cũng trong bài “Song kì”, bà Đường không dám cầm tay ông Bảy Trung bước lên chào khán giả (vô hình) vì bà có ông chồng mắc bịnh ghen. Sáng sáng ổng chở bà đến sân tập, thập thò đâu đó suốt buổi, rình xem bà có ông nào tò vè, rủ rê. Thấy kì quá, bạn bè trong đội rủ ông vô sân tập như ông Mười, vừa được yên tâm, vừa thêm sức khỏe nhưng ổng không chịu. Chắc được ghen, thích hơn.

Dẻo dai, cự phách nhất trong các đường quyền và đường kiếm là ông Năm Kha. Nhờ ông sửa chữa đường đi nước bước mà các bà trong đội, bà nào cũng có những bước đi đúng bộ, đẹp. Ai chưa tiến bộ thường nhờ ổng do đó ổng bị bà vợ theo dõi rồi… ghen ra mặt. Mấy bà thấy ghet, cho ổng ra rìa. Về nhà lại bị vợ eo xèo khóc lóc. Chán nản, ông bỏ sân (Buồn năm phút!) Lại vì lí do rất điện ảnh, bà Nam Ninh vào sân, khi nào cũng muốn lên đứng hàng đầu, để được ngang tầm ống kính, nhất là khi co đài truyền hình Tỉnh đến quay phim, cổ xúy phong trào người cao tuổi tập thể dục, bất kể tấm thân hộ pháp của mình làm rối con mắt thiên hạ. Đội hình đẹp, bà phải đứng hàng sau cùng.

Bà Kỳ Nam, lớn tuổi nhất đám, thường đau ốm nhưng hễ có các bạn đến thăm hỏi, động viên đôi ba câu là bà mạnh liền. Sáng thức dậy, hăng hái ra sân tập. Bà này dễ động lòng trắc ẩn, thấy bà Như Lan bị đau đầu gối, hai chân phải đeo cặp ống thun dày cộm giống mấy ông đá banh, bà mách cho bài thuốc thần kì. Cao hổ cốt thì ai cũng biết rồi. Độc chiêu hơn cả số một là bài: “Kiếm đầu gối mấy thằng giặc lái Mĩ bị ta bắn hạ, đem mài thành bột, hòa với nước mà uống, dứt khoát hết đau. Tại tụi nó ăn toàn đồ bổ nên mạnh lắm, như cọp vậy”. Bà đế thêm. Sẵn bịnh yếu tim với yếu bóng vía, bà Như Lan nghe vậy phát chóng mặt, ọe mửa ngay tại chỗ rồi huyết áp tăng. Báo hại phải nghỉ dưỡng mất ba hôm. Cũng may, đội thể dục chưa kịp xuất quỹ mua đường sữa, đi thăm.

Đôi mắt Huỳnh Dở Hơi không rời con nước.

Sáng nay, không hiểu sao, cũng những động tác tập thường ngày mà chân cẳng bà sượng sùng lúng túng, khó điều khiển. Thuần thạo nhất là động tác Tả Đăng Cước, Hữu Đăng Cước vậy mà nó làm bà liêu xiêu muốn té. Sao vậy cà? Hay là vì đêm qua bà chập chờn khó ngủ. Dưng không hai cẳng chân bà mỏi nhừ rệu rã. Hễ duỗi ra thì vọp bẻ, đau điếng…

Ngoài ngã ba sông, tiếng ghe máy xành xạch dội về. Bà nói thầm: “Để coi, nó chạy qua đây, làm sóng lớn vỗ mạnh bờ kè, nghe rầm rầm, xà xà thiệt khó chịu. Có khi nước tung lên chỗ mình.”

Bà không còn nghe rõ tiếng hát bài thể dục bảy động tác: Đầu cổ - Vươn thở - Tay - Chân - Vặn mình - Lườn - Toàn thân, mà bà đang cùng các bạn ráo riết tập luyện, chuẩn bị cho ngày trình diễn sắp tới.

“Trên bầu trời mênh mông đen xam, đàn chim vạc đi ăn về buông những tiếng kêu rời rã”. Nhớ câu văn ai viết sao giống cảnh này, bà nghe thấm thía một nỗi buồn bã, yêu thương. Tượng Phật Nằm bây giờ hiện rõ. Bà lạy Phật và niệm ở trong tâm. Sáng nao cũng vậy, khi kết thúc bài tập, nghe câu lệnh “Chúng ta hồi sức”, bà vội vàng lấy hơi thật dài vừa đưa tay lên, từ từ hít vô, niệm: “Nam-mô-A-Di”… rồi từ từ thở ra: “Đà-Phật”, hạ tay xuống. Chỉ có cách  đó thôi, bà mơi thấy thể dục nhiệm mầu, giúp bà thanh thản, khỏe mạnh…

Bỗng đâu bà có cảm giác nhồn nhột dưới chân, mơ hồ như rạn vỡ, nó làm bà lao chao một chút vừa lúc tiếng hát trong máy dẫn bà vô động tác “Chân”. Bà đưa chân đá. Chân kia vẫn có cái cảm giác ngột ngạt, liêu xiêu. Đôi giày bà mang không giúp bà nhận biết rõ hơn điều gì ở dưới chân. Bà muốn tháo bỏ nó tức khắc. Rồi tiếng bà đội trưởng hô: “Lườn”, tiếng nhạc hát tiếp: “Dong sông cuốn - dồn về biển cả… Mùa xuân tới - cuộc sống dâng sục sôi…” Thì:

- Ùm!!

Bờ kè vỡ toang. Lan can inox bị xé toạc. Ghế đá, cây kiểng đổ ụp xuống. Cột đèn nằm thài lai nửa trên nửa dưới.

Bà thấy mình trôi đi, bồng bềnh rồi lặn ngụp ở đâu đó. Hình ảnh Phật Nằm chao nghiêng, dựng ngược. Cùng lúc những đám mây rách mướp, vương vãi. Và tiếng thể dục Một, Hai, Ba, Bốn trên đài phát thanh vang vọng xao xác… Trong tư thế bị chuồi xuong, bà nằm ngửa, hai tay vùng vẫy cố trườn lên khỏi đám bùn đất khỏa đầy mặt nhưng liền đó, đợt bùn khác lại ập vào. Đớp không  khí, bà quơ tay tìm chỗ bám, bà vớ phải đầu tóc ai. Chợt hiểu, bà la lên. Hai chân lòi chòi quẫy đạp, đôi giày bà mang lại là vật cản quá lớn, nó nặng nề, quánh đặc. Bà ấn mạnh gót xuống. Lại trúng nhầm ai. Trượt rồi. Bà ấn thêm lần nữa. Ngóc đầu dậy. Tay kia đụng phải chân ghế gãy. Một tay nắm chặt nó, một tay cố giữ lấy đầu tóc. Bà ngồi lên bằng hai gót chân, cái mông và hai cùi chỏ. Trượt. Buông tay ghế. Bà nghiêng người dồn hết sức lực, nâng đầu người đó kéo lên. Không được. Kéo lên nữa. Cũng không được. Như có ai mách bảo, bà biết phải có cái gì đó quấn lấy quần y. Kẹt cứng. Đang lúc không có đợt sóng nào đập vô, bà nhanh tay chụp lấy bụng y, giựt tuột cái dây - kéo. “Trời ơi!... Nhung Cô Đơn”. Rồi bà la không thành tieng: “Có… người… dưới… lan can.”

Trời sáng rỡ.

Lúc đội cứu nạn đưa những nạn nhân lên, đã thấy giữa hai chân bà máu tuôn xối xả. Cùng thì những cánh hoa vàng hoa tím trôi lềnh bềnh trong dòng nước đỏ rực, hoen ố. Từng đoa hoa hướng dương kia, tiếc thay, mấy cụ ông cụ bà chưa kịp đeo vào tay để diễn tập…

Kiểm lại, người ta mới biết phần đất bị sụp lở nhằm ba hàng đầu của đội hình thể dục. Và chỉ những người hiểu chuyện mới biết Huỳnh Dở Hơi không phải chết vì tai nạn sụp bờ kè. Gần đây, bà bị mấy cục u nang trong bụng phình to , hành hạ, buộc phải cắt bỏ. Bởi sự cố gắng trì kéo quá sức làm vết khâu chưa lành hẳn đột ngột bị xé toạc dẫn đến xuất huyet ồ ạt, không thể cứu.

N.P.T.L
(250/12-09)

------------------
* Ôm cầu: tên gọi một động tác trong bài Thái Cực Quyền.



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với  vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.

  • ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.

  • ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.

  • VŨ NAM TRỰC           Truyện ngắn

  • TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.

  • XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG  Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.

  • NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...

  • HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.

  • PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.

  • NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.

  • CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.

  • NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.

  • LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.

  • NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.

  • PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.

  • MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.

  • MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.

  • ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.