PHAN ĐÌNH DŨNG
1. Có thể tìm hiểu những đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam thế kỉ XI - thế kỉ XIV qua một số phương diện tiêu biểu như ngôn ngữ, thế giới nghệ thuật hay hình tượng (con người, thiên nhiên, không/thời gian nghệ thuật), thể thơ, kết cấu, cách miêu tả thể hiện, giọng điệu… Đây là cách nghiên cứu “diện”.
Ảnh: internet
![]() |
Tuy nhiên, cũng có thể khảo sát “điểm”. Cụ thể là khảo sát một khía cạnh, một chi tiết nghệ thuật trong thơ Thiền Lý - Trần. Chẳng hạn như chúng ta có thể trình bày một số cảm nhận của mình về việc miêu tả sắc thân trong thơ Thiền giai đoạn trên. Qua việc tìm hiểu, nghiên cứu một chi tiết nghệ thuật chọn lọc, có thể phát hiện ít nhiều về những quan niệm nghệ thuật về con người, về cách cảm nhận thế giới cũng như khuynh hướng nghệ thuật của thời đại Lý - Trần.
2. Thuộc phạm vi khảo sát của đề tài này không phải là toàn bộ thơ Thiền Lý - Trần nói chung mà chỉ là những bài thơ tiêu biểu trong tập Thơ Thiền Lý - Trần1. Cụ thể:
- Trước tiên là những bài thơ trực tiếp miêu tả sắc thân. Dấu hiệu dễ nhận ra là ở chúng có sự xuất hiện của từ thân trong bản phiên âm của bài thơ. Có điều, hàm nghĩa của từ này phải là chỉ sắc thân, ngoại hình chứ không phải là chỉ thân thế (Thân thế quang âm nhược phi tiễn - Thân thế và tháng năm tựa như mũi tên bay), chỉ sự thân thiết giữa các đối tượng (Dữ vật vô thân - Cùng vật không thân)…
- Hoặc là chỉ đề cập một vài bộ phận của thân thể như: đầu, tóc, chân, tay, mặt, mũi, ngực, bụng… Ví dụ: Cáo tật thị chúng (Mãn Giác), Thị chúng kệ (Giác Hải), Phàm thánh bất dị (Tuệ Trung Thượng Sĩ), Đăng Bảo Đài Sơn (Trần Nhân Tông), Địa lô tức sự (Huyền Quang), Giới am ngâm (Trần Minh Tông)…
- Hoặc là chỉ miêu tả những hiện tượng có liên quan đến sắc thân như sinh, lão, bệnh, tử. Chẳng hạn như: Thị đệ tử Bản Tịch (Thuần Chân), Sinh lão bệnh tử (Diệu Nhân), Sinh tử nhàn nhi dĩ (Tuệ Trung Thượng Sĩ)… Đôi khi lại khéo dùng cách nói ẩn dụ quen thuộc để kín đáo bàn luận về sắc thân như Thị tịch (Ngộ Ấn), Mộc trung hữu hỏa (Khuông Việt)…
3. Thử khảo sát, thống kê những bài thơ trực tiếp miêu tả sắc thân trong tuyển thơ đã đề cập, chúng tôi nhận thấy chúng đã hiện diện với một số lượng không nhỏ: 20/80 bài. Điều này chứng tỏ rằng vấn đề sắc thân cũng là một trong những ám ảnh thơ ca, trở thành một trong những vấn đề quan yếu của những nhà thơ Thiền tông Lý- Trần.
Có thể đi tìm một vài nguyên nhân của hiện tượng trên từ nguồn cội văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam.
Phật giáo Thiền tông dù đi trực tiếp từ Ấn Độ sang hoặc theo đường vòng từ Trung Hoa lại bao giờ cũng phải dung hợp với tư tưởng truyền thống Việt Nam - yêu nước và nhân đạo - để trở thành Phật giáo Thiền tông Việt Nam, một khuynh hướng Phật giáo giàu tính thực tiễn, đại chúng, kết hợp nhuần nhuyễn giữa Đạo và Đời, giàu bản sắc dân tộc Việt Nam.
Trong tư tưởng nhân đạo của văn học truyền thống, chữ thân cũng là một ám ảnh ghê gớm, một ý thức thường trực. Tục ngữ Việt Nam đề cao tư tưởng nhân ái giữa người với người thì “thương thân” vừa là xuất phát điểm vừa là cái đích để hướng tới (Thương người như thể thương thân). Các nhà nghiên cứu ca dao Việt Nam thường hay nhắc tới motif “Thân em như” trở đi trở lại trong nhiều bài ca dao trữ tình: “Thân em như tấm lụa đào”, “Thân em như lá đài bi”, “Thân em như hạt mưa sa”, “Thân em như chổi đầu hè”, v.v. Motif này góp phần khẳng định bi kịch số phận của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Đồng cảm với bi kịch số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ, Truyện Kiều của Nguyễn Du đã tiếp biến nhiều cách nói, cách cảm nghĩ, cách dùng từ ngữ của ca dao dân tộc. Do vậy, chữ thân có nhiều lí do để chiếm một số lượng đáng kể bên trong kiệt tác của nhà thơ thiên tài. Thống kê sơ bộ cũng có thể bắt gặp sự hiện diện của nó trong Đoạn trường tân thanh trên dưới 40 lần, đặc biệt là những thời điểm quan trọng trong cuộc đời Kiều, nhân vật trung tâm gánh chịu một chuỗi những bi kịch của “phận đàn bà” trong xã hội cũ:
- Thà rằng liều một thân con (Gia biến).
- Thân nghìn vàng để ô danh má hồng (Thất thân với Mã Giám Sinh).
- Thân lươn bao quản lấm đầu (Quyết định tiếp khách).
- Đục trong thân cũng là thân (Quan hệ với Thúc Sinh).
- Tấm thân rày đã nhẹ nhàng (Sống với Từ Hải).
- Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương (Dằn vặt trước khi tự trầm).
- Thân tàn gạn đục khơi trong (Đoàn viên).
Mục đích của Thiền là “hiểu rõ thân tâm” (Liễu ngộ thân tâm - Nguyện Học), là tìm đến “Niết bàn tâm tịch tịch” (Mê ngộ bất dị - Tuệ Trung Thượng Sĩ). Song, muốn tâm ngộ trước hết phải nhận thức về sắc thân một cách rốt ráo. Nhìn chung, các nhà thơ Thiền Lý - Trần hay khẳng định, nhấn mạnh tính chất huyễn ảo, vô thường của thân:
- Thân như bóng chớp có rồi không (Thị đệ tử - Vạn Hạnh).
- Thân như tường vách đã đến lúc đổ nát (Tâm không - Viên Chiếu).
- Thân là hiện tượng sinh ra và mất đi (Thị đệ tử Bản Tịch - Thuần Chân).
- Vốn từ không tịch ảo thân sinh ( Thị tịch - Bản Tịch).
- Thân như băng gặp nắng trời (Sơ nhật vô thường kệ - Trần Thái Tông).
- Tấm thân nổi rồi lại chìm (Nhật mộ vô thường kệ - Trần Thái Tông).
- Không biết tấm thân là hư ảo (Bán dạ vô thường kệ - Trần Thái Tông).
- Thân như gương ảo, nghiệp như bóng (Vạn sự qui như - Tuệ Trung).
- Cái thân do huyễn ảo hóa thành rồi cũng phải diệt (Sinh tử nhàn nhi dĩ - Tuệ Trung Thượng Sĩ).
- Thân từ vô tướng vốn là không (Phàm thánh bất dị - Tuệ Trung Thượng Sĩ).
Tại sao các nhà thơ thiền Lý - Trần lại cho rằng sắc thân là huyễn ảo, vô thường? Có lẽ phải đi tìm lí do từ trong cảm thức thế giới của văn học trung đại nói chung và quan điểm bản thể luận của Phật giáo Thiền tông nói riêng. Trong cảm nhận của con người trung đại thì thế giới với con người là một (thiên nhân hợp nhất). Đi vào lĩnh vực văn hóa, văn học, con người cảm thấy có mình trong tự nhiên bắt đầu từ thân thể. Đây là cơ sở cho luận điểm “thân thể vũ trụ” của M. Bakhtin, nhà nghiên cứu văn học Liên Xô (cũ) khi phân tích một số hình tượng trong nghệ thuật cổ đại, trung đại. Và ngược lại, họ, những con người trung đại, cũng tự nhận thấy trong bản thân có cả vũ trụ. Nói như thiền sư Tăng Triệu là “thiên địa dữ ngã đồng căn - Vạn vật dữ ngã nhất thể” (Trời đất với ta cùng một gốc - Muôn vật với ta cũng cùng một thể). Mới hiểu vì sao các nhà thơ Thiền Việt Nam thế kỉ XI - thế kỉ XIV đã cụ thể hóa luận điểm này bằng một loạt những so sánh giữa sắc thân với những hiện tượng tự nhiên: hoa sen, cành mai, mùa thu, hoa bướm, mây ngàn, nước suối, ánh trăng, cây cỏ, giọt sương… Thậm chí quan hệ giữa thiên nhiên và sắc thân giàu tính huyễn ảo đã hóa thành tứ thơ trong một bài thơ thiền cụ thể:
“Thông reo trăng nước sáng
Không ảnh cũng không hình
Sắc thân cũng thế vậy
Hư không tìm tiếng vang”
(Tầm hưởng - Minh Trí)
Sắc thân là hư ảo cũng như “bướm hoa đều huyễn ảo”. Cũng theo quan điểm Phật giáo thì toàn bộ thế giới sự vật, hiện tượng này - thế giới hình tướng - cũng là huyễn ảo. Bởi lẽ, Phật giáo quan niệm rằng cái sắc thân của mỗi người mở rộng ra là toàn bộ thế giới chỉ là “giả hợp”, “vốn từ chỗ trống không lặng lẽ mà sinh ra” (Thị tịch - Bản Tịch). Chúng sinh ra từ bốn yếu tố - “tứ đại” - (đất, nước, lửa, gió) tùy thuộc nghiệp duyên, theo luật nhân quả của nhà Phật. Do vậy, con người tu hành chớ nên “chấp” vào sắc thân mà nên biết “quên thân”, “buông bỏ hình hài” xem chuyện “sinh lão bệnh tử - Lẽ thường tự nhiên” (Sinh lão bệnh tử - Diệu Nhân). Một khi cái tâm đã “ngộ” về lẽ vô thường của sắc thân, giọng điệu thơ Thiền Lý - Trần, đặc biệt ở khá nhiều bài thơ dặn dò đệ tử trước khi viên tịch - sẽ mang cái vẻ ung dung, thanh thản hiếm có.
4. Cái nhìn ung dung, tự tại đối với sắc thân đồng thời cũng là cái nhìn biện chứng. Một mặt, các thiền sư thi sĩ Lý - Trần xem thân là sắc tướng, là “có”. Mặt khác, họ lại cho rằng thân là “tứ đại”, “vốn dĩ đều là không” (nguyên lai nhất thiết không - Sắc thân dữ diệu thể I, Đạo Huệ). Thân đi từ sinh đến diệt: “Thân như bóng chớp có rồi không” (Thị đệ tử - Vạn Hạnh). Những bậc tu chứng một khi đã giác ngộ “thực tướng” (Niết bàn, Chân như) có thể vượt lên lẽ sinh diệt, chuyển sắc thân thành pháp thân. Bấy giờ con người sẽ là “một thân nhàn nhã dứt muôn duyên” (Thị tịch - Pháp Loa), “vươn mình một cái vượt ra khỏi lồng” (Thoát thế - Tuệ Trung) ung dung đi lại giữa “ba cõi mênh mông”. Trái lại, “bậc chân nhân chưa thành Phật cũng chỉ là một khối thịt đỏ hỏn” (Vô vị chân nhân xích nhục đoàn - Phổ thuyết sắc thân kệ, Trần Nhân Tông). Chưa có điều kiện để bàn đến cái nhìn duy tâm, trừu tượng về một thế giới khác trong những ý thơ trên ; ở đây, chúng ta chỉ lưu tâm tới cái nhìn bình đẳng, không phân biệt giữa phàm và thánh trong thơ Trần Nhân Tông (bài Phổ thuyết sắc thân kệ), thơ Tuệ Trung Thượng Sĩ (bài Phàm thánh bất dị), thơ Trần Minh Tông (bài Giới am ngâm) nói riêng, tiêu biểu cho thơ Thiền Lý - Trần nói chung. Điều này thật đáng quí. Nó khiến cho Phật giáo Thiền tông vừa giống vừa không giống với những tôn giáo khác. Giống ở ý nghĩa nhân bản khẳng định, đề cao con người. Khác ở tính chất vô thần vốn xa lạ với bản chất của tôn giáo nói chung. Phải chăng đây cũng chính là cơ sở cho thấy Thiền tông gần gũi với cách sống, lối sống hơn là một nguyên lí triết học?
Đi sâu hơn nữa vào mảng thơ Thiền miêu tả, đề cập đến một số bộ phận của thân thể trong thơ của những thiền sư Lý - Trần, chúng ta sẽ càng thú vị, ngạc nhiên hơn khi chứng kiến nhiều suy tư, cảm nhận rất người về cách sống, lối sống.
Trước tiên, các nhà thơ hay nói đến một lối sống phù hợp với những qui luật của tự nhiên mang ý vị Lão - Trang. Họ hay nhắc đến trong thơ của mình hình ảnh tuổi già, tóc trắng, điều mà người đời xưa cũng như nay thường luôn lo nghĩ: “Trên đầu già đến rồi” (Thị đệ tử - Vạn Hạnh); “Tóc xuân ngầm điểm trắng” (Sơ nhật vô thường kệ - Trần Thái Tông) ; “Biết dùng gái đầu bạc (Thị chúng kệ - Giác Hải)”. Song khác với thơ Nho ở cái giọng cảm khái, bùi ngùi khi miêu tả tuổi già, đầu bạc2, trong thơ Thiền Lý - Trần, hình ảnh đầu bạc biểu hiện lẽ biến dịch, tính chất vô thường của sắc thân. Người tu chứng ngộ tiếp nhận nó với giọng thơ ung dung, thanh thản của những con người lúc nào cũng có cái nhìn “lạc đạo tùy duyên”) luôn luôn gắn bó với hiện tại, trong cái đổi thay, sinh diệt vẫn đạt được cái không đổi thay, sinh diệt (Biết dùng gái đầu bạc). Hình ảnh “ông sư già bận bịu” trong bài thơ Địa lô tức sự của thiền sư thi sĩ Huyền Quang chẳng phải là cách sống “lạc đạo tùy duyên” tích cực, giàu giá trị nhân bản của các lão sư Lý - Trần hay sao?
Điểm đáng chú ý thứ hai là một số câu thơ miêu tả cử chỉ, tư thế của các thiền sư có liên quan đến sắc thân. Có những tư thế, cử chỉ rất “động”: “Tài trai lập chí xông trời thẳm” (Thị tịch - Quảng Nghiêm); “Xoay mình một ném vượt ra lồng” (Thoát thế - Tuệ Trung Thượng Sĩ); “Bước trên đầu Phật trèo lên đỉnh (Phật tâm ca - Tuệ Trung Thượng Sĩ)”. Xưa nay, các nhà nghiên cứu văn học như Lý Tử Tấn, Lê Quý Đôn, Đặng Thai Mai, Đinh Gia Khánh… cứ ngờ ngợ cho rằng đây là những câu thơ “phi Thiền” chủ yếu phản ánh bản lĩnh, khí phách của con người thời đại Lý - Trần. Thật ra, những con người ấy, nói như nhà nghiên cứu Trần Đình Sử, “vẫn nằm trong giáo lí Thiền tông”. Chất Thiền ở đây vẫn là tinh thần phá chấp của Thiền tông đồng thời còn là những biểu hiện trạng thái chứng ngộ của các thiền sư bấy giờ. Thơ Thiền Lý - Trần là thế, rất Đạo mà vẫn rất Đời, quyện hòa giữa thiền vị và thi vị. Đặc biệt là những câu thơ miêu tả những cử chỉ, tư thế rất “tĩnh” của những thiền sư:
- Uổng miệng không nói (Sinh lão bệnh tử - Diệu Nhân).
- Giữa nhà không nói chỉ ngồi yên
Nhàn ngắm Côn Luân sợi khói lên (Ngẫu tác - Tuệ Trung Thượng Sĩ).
- Đứng tựa lan can cầm ngang sáo ngọc
Trăng sáng rọi đầy cả ngực bụng (Đăng Bảo Đài sơn - Trần Nhân Tôn).
- Nệm cỏ ngồi yên ngó rụng hồng (Xuân vãn - Trần Nhân Tông).
- Khách ra về tăng không nói gì
Khắp mặt đất ngát mùi hương hoa thông (Đề Gia Lâm tự - Trần Quang Triều).
- Ngồi lặng đìu hiu mát cả giường (Tâm vương - Tuệ Trung Thượng Sĩ).
Những câu thơ trên, đặc biệt là những câu thơ đời Trần (của Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Nhân Tôn, Trần Quang Triều, Huyền Quang) bộc lộ sự hòa điệu tự nhiên, trọn vẹn giữa con người và ngoại vật. Khó mà phân biệt đâu là mùi tục, đâu là vị thiền. Thiên nhiên vừa được chiêm ngưỡng qua cái nhìn ung dung, tự tại của thiền sư, vừa hiện lên một cách hồn nhiên, gợi cảm dưới đôi mắt của thi nhân. Chất triết lí (đạo học) và chất trữ tình (chất thơ) hòa quyện, gắn bó.
5. Cuối cùng, chúng tôi muốn bàn đến một hiện tượng thơ ca có liên quan đến sắc thân trong thơ Thiền Lý - Trần. Đó là cách dùng một loại ẩn dụ từ vựng nhằm chỉ cái tính nguyên thủy của vạn vật (bổn tánh), cái tâm bản thể chứa đựng trong mỗi sự vật:
- Muốn biết đâu là khuôn mặt thực (Tâm vương - Tuệ Trung Thượng Sĩ).
- Khuôn trăng người mẹ ai hay biết (An định thời tiết - Tuệ Trung Thượng Sĩ).
- Khúc kì diệu “bản lai” nên cất giọng hát (Thị chúng - Tuệ Trung Thượng Sĩ).
- Một buổi sáng chợt phát hiện ra khuôn mặt người mẹ (Độc đại tuệ ngữ lục hữu cảm - Trần Thánh Tông).
- Nhận ra được bộ mặt thật vốn có (Tự thuật - Trần Thánh Tông).
Ở đây có hiện tượng dùng “thân” để chỉ “tâm”. Dùng một bộ phận tiêu biểu của “sắc thân” để chỉ “diệu thể”. Hiện tượng này, một mặt, bắt nguồn từ cái nhìn triết học “vạn vật nhất thể” trong tư tưởng trung đại, mặt khác, gần gũi hơn, nó đến từ cái nhìn biện chứng, không phân biệt của Thiền tông. Bởi, theo các thiền sư:
- Sắc thân và diệu thể
Chẳng hợp chẳng chia lìa (Sắc thân dữ diệu thể II - Đạo Huệ).
Để gây ấn tượng mạnh mẽ về sự thống nhất, hài hòa giữa “thân” và “tâm”, các thiền sư thi sĩ thường dùng một hình ảnh ẩn dụ mang tính ước lệ: hoa sen trong lò lửa:
- Trong lò một cành hoa (Sắc thân dữ diệu thể I - Đạo Huệ).
- Trong lò sen nở sắc thường tươi (Thị tịch - Ngộ Ấn).
- Một đóa sen trong lò lửa hồng (Phật tâm ca - Tuệ Trung Thượng Sĩ).
Đôi khi các nhà thơ Thiền Lý - Trần lại dùng một hình ảnh ẩn dụ khác:
- Cái thân vàng cao quí của Di Đà ở ngay trong lòng (Thị du Tây phương bối - Tuệ Trung Thượng Sĩ). Có lẽ các thiền sư muốn nhắc nhở chúng ta rằng Phật tính không ở đâu xa, Phật tính có sẵn trong tâm mỗi người?
Phật giáo nói chung, Thiền tông nói riêng vừa sâu sắc, vừa dung dị. Sâu sắc về triết học, dung dị về lối sống. Albert Einstein (1879-1955), một trong những bộ óc vĩ đại của loài người ở thế kỉ XX, rất có lí khi cho rằng trong tương lai của loài người Phật giáo sẽ trở thành người bạn đồng hành với khoa học, đồng hành cùng nhân loại trên bước đường mưu cầu bình yên, sự thanh thản thân tâm.
P.Đ.D
(SHSDB37/06-2020)
.......................
1. Đoàn Thị Thu Vân - Thơ Thiền Lý - Trần, Nxb. Văn nghệ Tp. HCM, 1998.
2. Cảm hoài của Đặng Dung; Tự thán I, II; U cư I, II; Mạn hứng I, II của Nguyễn Du.
ĐỖ LAI THÚY Văn là người (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.
ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.
TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.
TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?
HOÀNG NGỌC HIẾN ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...
THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.
TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.
ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.
ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…
HỒ THẾ HÀ Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.
JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...
PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...
HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.
HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.
NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.
ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.
LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.
TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.