Nhân kỉ niệm 62 năm thành lập (17/6/1957 – 17/6/2019), Nhà xuất bản Kim Đồng ra mắt ấn bản mới tập truyện Dưới chân Cầu Mây của nhà văn Nguyên Hồng. Tập truyện gồm ba truyện đặc sắc dành cho thiếu nhi: Đôi chim tan lạc, Dưới chân Cầu Mây vàCháu gái người mãi võ họ Hoa.
Nhà văn Nguyên Hồng (1918-1982)
Năm 1957, nhà xuất bản đầu tiên dành cho thiếu nhi Việt Nam được thành lập, mang tên người anh hùng thiếu niên Kim Đồng. Nhưng trước đó, Tủ sách Kim Đồng dành cho thiếu nhi của Nhà xuất bản Văn nghệ trong kháng chiến chống Pháp đã quy tụ tác phẩm của các nhà văn tâm huyết viết cho thiếu nhi. Cuốn sách đầu tiên thuộc tủ sách này chính là cuốn Dưới chân Cầu Mây của nhà văn Nguyên Hồng in năm 1951.
Dưới chân Cầu Mây là câu chuyện cảm động về anh bộ đội thương binh tên Chí. Anh từng bị giặc Pháp bắt và tra tấn dã man hòng lấy cung, nhưng với ý chí kiên cường không khuất phục trước đòn roi của giặc, anh quyết không khai nửa lời. Với sự trợ giúp của Giang - chàng thiếu niên trẻ tuổi cũng từng bị giặc bắt khi làm nhiệm vụ giao liên, hai người đã trốn thoát khỏi nhà tù của giặc và trở thành anh em, đồng chí thân thiết. Trong khoảng thời gian chờ bắt liên lạc với đơn vị, Chí đã sống cùng gia đình Giang ở phố Cầu Mây, dạy bình dân học vụ, hướng dẫn bà con đào hầm tránh đạn. Với sự dìu dắt của Chí, Giang cùng các bạn thiếu nhi khối phố tăng gia sản xuất, dọn dẹp phố xá sạch đẹp, tham gia các hoạt động văn thể… Một câu chuyện giản dị, xúc động về tình quân dân như cá với nước.
Trong cuốn Nguyên Hồng - nhà văn của những người cùng khổ, tác giả Nguyễn Thị Nhã Nam - ái nữ của nhà văn viết: “Phải nói rằng hiếm có người đàn ông nào yêu trẻ thơ với một tình yêu thương sôi nổi và đằm thắm như Nguyên Hồng, không kể đó là con cháu của ông hay là những đứa trẻ bất kì ông gặp trong cuộc đời… Phải chăng vì có một tuổi thơ đau khổ nên ông vô cùng thuơng cảm những hoàn cảnh éo le, buồn khổ của trẻ thơ? Phải chăng cũng xuất phát từ trái tim nhân hậu ấy mà những trang viết dành riêng cho trẻ em của ông (Một tuổi thơ văn, Cháu gái người mãi võ họ Hoa...) đã ra đời?”
Trong Cháu gái người mãi võ họ Hoa, nhà văn Nguyên Hồng đã dành những trang viết đầy xót thương khi viết về cuộc đời của Tiểu Hoa, cô bé theo cha mãi võ bên bờ sông Tam Bạc. Một thời mà “chỉ thoáng trông thấy gánh võ và nghe thấy tiếng nhạc đồng, là từ cả khu bến tàu, đầu cầu, vườn hoa phố chợ nọ ra đến ngoài cửa sông đã náo nức lên rồi”. Ai cũng đón chờ “xem người con gái múa đôi kiếm báu và lão Hoa tung hoành cây đoản đao”, và “không một người nào không thán phục, cũng như không thể nào không truyền tụng hai tài nghệ tuyệt vời kia”.
Quân Nhật tràn đến chiếm đóng, bắt đầu cuộc đời chìm nổi của Tiểu Hoa. Sau hơn hai mươi năm nhiều dâu bể, trở lại phố xưa, tim tác giả “chợt đập tung lên” khi gặp lại hình ảnh một cô bé Tiểu Hoa năm xưa trong hình hài một bé gái - chính là con gái của Tiểu Hoa. Hình ảnh cô bé khiến nhà văn có mối liên tưởng mạnh mẽ: “Những làn lửa chớp của những băng đạn cuồn cuộn quyết liệt, căm giận vô cùng, và cũng bình tĩnh tin tưởng vô cùng, bắn lên từ một sức sống cũng thật là mới lạ, kì diệu vô cùng”.
Đôi chim tan lạc có lẽ là một trong những truyện miêu tả về thiên nhiên và thế giới loài vật hay nhất của nhà văn Nguyên Hồng. Dù trong truyện, tác giả có lời tự bạch một cách khiêm tốn rằng “mình mà có được chỉ bằng cái móng tay thiên tài của ông nhà văn Tô Hoài chuyên viết truyện loài vật cho trẻ con đọc ấy, thì mình tả cũng phải biết”.
Đôi chim tan lạc miêu tả sống động cuộc đời chìm nổi của đôi chim Mã Lĩnh - “đôi chim cổ cườm óng ánh, bộ lông như nhiễu như xa tanh”. Vợ chồng Mã Lĩnh đã từng có cuộc sống êm đềm ở động Ổi đài Tre tại vườn nhà bác Trai. Bỗng một ngày, bom đạn trút xuống, khói lửa bốc lên mù mịt, tre gỗ rơm rạ ngổn ngang. Rồi sấm sét trút xuống, đất trời mịt mùng kéo theo cơn đại họa của vợ chồng Mã Lĩnh. Đôi chim bị gã-chạy-chợ bắt đi nhốt vào lồng, phải chịu một cuộc sống chật hẹp tù túng như “chuồng cọp ở Côn Lôn”. Trải qua bao đau đớn, cuối cùng, đôi chim cũng may mắn thoát ra được và trở về chốn cũ. Động Ổi đài Tre một thời đã khác. Nơi đây đã có một đơn vị bộ đội đóng quân. Cuộc sống của đôi chim giờ đây đồng hành với những người lính bộ đội cụ Hồ ân tình hiếu nghĩa.
Nhà văn Nguyên Hồng được mệnh danh là nhà văn của “những người cùng khổ”. Ông dành tình cảm sâu sắc cho giới lao động nghèo dưới đáy xã hội. Ngay cả các nhân vật trong truyện thiếu nhi của ông cũng là những em bé, hay con vật đáng thương, những nạn nhân của chế độ cũ, của chiến tranh, khiến người đọc rưng rưng cảm động về những gian truân vất vả các nhân vật đã phải vượt qua. Bên cạnh đó, ý chí kiên cường, tình yêu thương thiết tha của các em cũng khiến người đọc cảm phục và tin tưởng vào một tương lai tươi sáng.
Theo Văn Thanh - VNQĐ
. Hai năm sau kể từ khi Julia Kristeva đưa ra khái niệm liên văn bản (intertextuality), Roland Barthes đã đi xa hơn nhiều qua một tuyên bố gây sốc: Cái chết của tác giả (The Death of the Author, 1968). Những quan niệm mới mẻ của các nhà khoa học một thời từng là trụ cột của chủ nghĩa cấu trúc đã chính thức khép lại vai trò của isme này và mở ra giai đoạn hậu cấu trúc. Trong quan niệm mang tính gây hấn của họ, người đọc, từ chỗ là kẻ bên lề, đã chính thức bước vào vị thế trung tâm với tư cách là kẻ có quyền năng tối thượng trong việc thiết lập mối quan hệ và ý nghĩa giữa văn bản và liên văn bản, giữa văn bản và các thiết chế văn hóa đã tạo ra nó(1).
Tiểu thuyết về giải phóng miền Nam Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.1975 của nhà báo kỳ cựu Trần Mai Hạnh đã vượt qua tiểu thuyết về chiến tranh biên giới phía Bắc Mình và họ của Nguyễn Bình Phương, tác giả xuất sắc của văn học đương đại.
“Tay chơi” Nguyễn Quang Sáng rời xa cõi tạm, “trưởng lão” Tô Hoài về với “Cát bụi chân ai,” nhà văn của đất và người phương Nam - Anh Đức về với đất Mẹ, tác giả của “Biển và chim bói cá” - nhà văn Bùi Ngọc Tấn kết thúc hành trình sống và viết…
"Những đỉnh núi du ca" là công trình nghiên cứu mới nhất về tộc người H'mông của nhà nghiên cứu trẻ Nguyễn Mạnh Tiến (ảnh bên), người đã cố công lang thang suốt ba năm trên khắp miền núi phía Bắc mà trọng tâm là cao nguyên đá Đồng Văn để tìm kiếm cho mình một lối tiếp cận khả dĩ nhất để giải mã những phản ứng phức tạp của tộc người vừa đặc biệt, vừa hấp dẫn nhưng cũng không ít bí ẩn.
"Có một phố vừa đi qua phố" - tập di cảo của cố tác giả Đinh Vũ Hoàng Nguyên - là một trong bốn tác phẩm văn học đoạt giải "Văn học Nghệ thuật Thủ đô 2014".
Nhà văn quân đội có tiếng Đình Kính (Hải Phòng) viết ở nhiều lĩnh vực: Tiểu thuyết, truyện ngắn, ký, kịch bản phim. Mảng chủ đề lớn mà ông đeo đuổi là biển và những người lính biển, với các tác phẩm “Sóng cửa sông” (1976), “Đảo mùa gió” (1978), “Lính thủy” (1978), “Người của biển” (1985) - Giải thưởng văn học Bộ Quốc phòng, “Sóng chìm” (2002), “Huyền thoại tàu không số” (2012) - 2 tác phẩm này đều đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn VN. Phóng viên Báo Lao Động đã phỏng vấn ông…
Trong tiểu thuyết Xác phàm, nhà văn Nguyễn Đình Tú dùng hình ảnh “mùi buồn” để gợi lại ẩn ức về một cuộc chiến tranh.
Bất kỳ người cầm bút nào cũng đều mơ ước rằng tác phẩm của mình sẽ trở thành sách gối đầu giường của hàng triệu người. Sao chúng tôi - những nhà văn, nhà thơ Việt Nam lại không mong muốn một ngày tác phẩm của mình hiện diện trên các ngôn ngữ của dân tộc khác chứ?
NGUYỄN NHẬT ÁNH
Tạp văn
Nhà văn Tô Hoài - tác giả của cuốn sách "Dế mèn phiêu lưu ký" khiến bao thế hệ bạn đọc Việt Nam say mê - đã từ trần vào trưa 6.7.2014 tại nhà riêng ở Hà Nội, hưởng thọ 95 tuổi.
Nobel Văn học là đỉnh cao nhưng không phải đỉnh cao nào cũng làm hoan hỉ tất cả mọi người. Việc lựa chọn của viện Hàn lâm Thuỵ Điển những năm gần đây chắc chắn sẽ làm chạnh lòng những ai đã trót yêu thích thế giới văn chương của Kafka, Jorge Louis Borges, Umberto Eco, Robbe – Grillet, Italo Calvino…
Ngày nay, nhìn lại chủ trương cách mạng của Phan Châu Trinh cách đây hơn một thế kỷ, một lần nữa chúng ta lại thấy tầm nhìn của một người mang khát vọng Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh.
Lần nào ra Hà Nội, dù dài ngày hay chỉ là thoáng chốc, nhà văn Trần Thùy Mai cũng tới ngồi uống cà phê ở nhà hàng Thủy Tạ nhìn ngắm hồ Gươm và hẹn bạn bè tới gặp gỡ chuyện trò. Hỏi vì sao chị chỉ chọn mỗi chỗ này, Trần Thùy Mai bảo: “Là vì ở đây là “Hà Nội nhất”, lại có thiên nhiên bao quanh, giống như bờ sông Hương ở Huế vậy…”.