Kỷ niệm 70 năm thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22/12/1944 -2014), NXB Quân đội Nhân dân vừa ấn hành cuốn sách Về cội nguồn Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Đại tá Đoàn Hoài Trung
Sách tập hợp 22 bài viết, dày 284 trang thể hiện hành trình vào Nam ra Bắc của tác giả, đại đá Đoàn Hoài Trung, để đem đến cho độc giả nhiều điều ít biết về Quân đội Việt Nam
Hai vợ chồng trong ngày đầu thành lập quân đội
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã giao trọng trách thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân (tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam) với câu hỏi giản dị: “Việc này giao cho chú Văn (bí danh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp) phụ trách, chú có làm được không?”.
Chiều ngày 22/12/1944, tại khu rừng Trần Hưng Đạo, thuộc huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, đồng chí Võ Nguyên Giáp tập hợp 34 đội viên tuyên thệ trước cờ đỏ sao vàng thành lập quân đội sơ khai của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Tuy nhiên, trong sách Quân đội Nhân dân Việt Nam qua những chặng đường chiến đấu do NXB Quân đội Nhân dân in năm 1984, đại tá Đoàn Hoài Trung đọc được, có ghi rõ: “Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập… Đội có 34 người (có 3 nữ)”. Thế nhưng, khi Đoàn Hoài Trung lên Cao Bằng gặp cụ Bế Kim Anh, một trong 34 đội viên năm ấy, thì cụ ông khẳng định: “34 đội viên tuyên thệ ngày ấy tất cả đều là nam”. Khi vào rừng Trần Hưng Đạo, Đoàn Hoài Trung thấy trên bia lưu danh cũng không có một đội viên nữ nào.
Đem thắc mắc về sự không trùng khớp này dò hỏi khắp nơi, cuối cùng Đoàn Hoài Trung gặp được người thật việc thật. Trong buổi chiều tuyên thệ thành lập quân đội ngày 22/12/1944, đúng là chỉ có 34 người nam. Nhưng vẫn có 3 người nữ tham gia vào thời điểm ấy, gồm các bà Loan, Thanh, Cầm nhưng họ không đứng vào đội hình tuyên thệ như 34 người nam. Được biết, ba người nữ lo công tác hậu cần cho đội.
Tìm hiểu thêm, một trong ba người nữ có mặt trong buổi đầu thành lập quân đội có họ tên đầy đủ là Đàm Thị Loan, sinh năm 1925, người dân tộc Tày. Bà Đàm Thị Loan chính là vợ của Đại tướng Hoàng Văn Thái – một trong 34 người nam đã tuyên thệ trước cờ chiều 22/12/1944.
Người đội viên năm ấy duy nhất còn sống ở Lâm Đồng
10 năm trước, Đoàn Hoài Trung đã tìm đến địa chỉ nhà ông Tô Văn Cắm ở huyện Đạ Tẻh, tỉnh Lâm Đồng. Thời điểm ấy, Đoàn Hoài Trung đã gặp ba người đội viên thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân để viết về cuộc đời họ. Để có được địa chỉ liên lạc với ông Tô Văn Cắm, Đoàn Hoài Trung đã gặp ông Bế Kim Anh một trong 34 đội viên với ông Tô Văn Cắm ở Cao Bằng để xin địa chỉ. Ông Tô Văn Cắm vào Lâm Đồng năm 1992 sống với con cháu. Sau 10 năm, đến nay, chỉ còn duy nhất ông Tô Văn Cắm vẫn sống khỏe ở tuổi 93.
Ông Tô Văn Cắm, bí danh Tô Tiến Lực tham gia Việt Minh từ những ngày đầu cùng với anh em ruột trong gia đình. Dù nhiều người trong gia đình rất muốn vào đội tuyên thệ trước cờ năm ấy, nhưng chỉ mình ông được chọn. Ông Tô Tiến Lực tham gia trận đánh đầu tiên của quân đội ở Phai Khắt, Nà Gần và Nam tiến đóng quân ở Rạch Giá kháng Pháp. Năm 1946 trong một trận đánh ông bị thương phải rời đơn vị về quê. Thế nhưng năm 1947 Pháp nhảy dù xuống Bắc Kạn hòng tiêu diệt cơ quan đầu não của ta, ông lại xin tái ngũ. Năm 1950 trong chiến dịch biên giới, ông được bổ nhiệm làm trung đội trưởng pháo binh.
Cuộc đời ông Tô Văn Cắm không hề suôn sẻ, dù bị thương hai lần nhưng giấy tờ thất lạc nên ông không được hưởng chế độ thương binh, rồi ông lại phải làm lễ kết nạp Đảng vào năm 1969. Thế nhưng, ông vẫn luôn lạc quan. Đoàn Hoài Trung kể: “Tôi hỏi ông có uống rượu được không? Ông cười nói hai ngày mới uống một lần, nhưng đã uống phải một xị mới đã”.
Đại tá Đoàn Hoài Trung nói thêm: “Khi in cuốn sách này, tôi đã đến Lâm Đồng thăm cụ Tô Văn Cắm. Ở tuổi 93 ông vẫn rất khỏe mạnh, hiện cụ đã được hưởng chế độ thương binh và sống trong căn nhà tình nghĩa to đẹp, mỗi ngày cụ được cấp một tờ báo Quân đội Nhân dân”.
Theo Trạc Tuyền - TT&VH
HOÀNG KIM NGỌC
Hồ Anh Thái thuộc số các nhà văn mà người đọc có thể “ngửi văn” đoán ra ngay tác giả. Bởi anh đã tạo cho mình được một giọng điệu không lẫn vào đâu được (dù nội dung kể ở mỗi cuốn sách là khác nhau).
NGUYỄN KHẮC PHÊ
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Nhân Tuyển tập Nguyễn Khắc Thứ vừa được xuất bản)
PHONG LÊ
Tính chiến đấu và chất thép - đó là nét quán xuyến trong cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh, và cố nhiên bao trùm cả hoạt động viết của Người.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
Nếu tôi không nhầm thì phần lớn bạn đọc chưa hề biết tên bà Cao Ngọc Anh; nói chi đến việc nên hay không nên dành cho bà một vị trí trong làng thơ Việt Nam.
VÕ QUÊ
Ngày hồng (Nxb. Thuận Hóa, 2023) như tên gọi tập thơ là cả một cuộc hành trình dài “kỷ niệm bốn mươi tám năm ngày thống nhất đất nước”, “kỷ niệm bốn mươi tám năm chuyến đò dọc hẹn ước của Duy Mong - Xuân Thảo”.
MAI VĂN HOAN
Nguyễn Đắc Xuân là nhà văn, nhà báo, nhà thơ, nhà nghiên cứu lịch sử và văn hóa Huế. Đời thơ tôi (Nxb. Hội Nhà văn, 2022) là tập thơ chính thức đầu tiên anh gửi tới bạn đọc.
HỒNG NHU
(Bài nói trong buổi tổng kết, trao giải cuộc thi thơ 1996 do Hội VHNT TT. Huế tổ chức. Nhà thơ Hồng Nhu, trưởng BCK trình bày)
NGUYỄN KHẮC PHÊ
Thật khéo, nữ sĩ Trần Thùy Mai trở về Huế vui xuân và gặp gỡ các bạn văn quen biết trong tòa soạn Tạp chí Sông Hương thân thuộc đúng vào lúc bộ tiểu thuyết Công chúa Đồng Xuân ra mắt bạn đọc.
PHẠM XUÂN NGUYÊN
1. Trong đời văn của Nguyễn Huy Tưởng có một ngày có thể được coi là trọng đại. Đó là ngày 8 Juin 1942. Ngày ấy ông chép lại vở kịch cũ Vũ Như Tô.
VƯƠNG HỒNG HOAN
Trong văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Bính là một thi sĩ được nhiều người yêu thích và trân trọng. Cuộc đời và thơ ông luôn luôn được nhắc đến trong bạn đọc nước ta hết thế hệ này đến thế hệ khác.
LÊ XUÂN VIỆT
(Nhân đọc hồi ký "Âm vang thời chưa xa" của Xuân Hoàng. Nxb Văn học và Hội Văn nghệ Quảng Bình 1996)
LÊ THANH NGA
Châu Âu - một không gian văn hóa mà nền dân chủ phát triển trước nhất trong lịch sử nhân loại - ngay từ thời trung cổ đã là trung tâm của lễ hội Carnaval (tiếng Việt: lễ hội giả trang).
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc Chuyện cũ Tử Cấm Thành - Kịch bản tuồng lịch sử của Nguyễn Phước Hải Trung - Nxb. Văn học, 2022)
PHONG LÊ
Hơn 60 năm sáng tác và với tuổi đời ngoài 80, Tố Hữu là nhà thơ luôn luôn hiện diện trong sinh hoạt tinh thần của dân tộc Việt Nam thế kỷ XX.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
"Màu thời gian" là bài thơ nổi tiếng của Đoàn Phú Tứ; đến mức các tác giả "Thi nhân Việt Nam" đã từng nhận định: "không có bài nào khác tinh tế và kín đáo như thế".