Quê hương của tượng Nữ thần tự do

08:39 24/03/2010
VŨ LÊ THÁI HOÀNGTrong ánh nắng vàng rực tuyệt đẹp, giữa một New York hối hả, tấp nập, tua tủa nhà chọc trời, kiêu hãnh hiện ra bóng hình một phụ nữ khổng lồ tay cầm ngọn đuốc cháy sáng soi đường vào Tân Thế Giới.

Ảnh: Internet

Đó là tượng Nữ thần Tự do - biểu tượng và niềm tự hào của nước Mỹ nhưng lại chính là hiện thân của những lý tưởng cộng hòa của nước Pháp. Ý tưởng xây dựng một bức tượng đài như thế được đưa ra đầu tiên vào năm 1865 ở quê hương Paris của Edouard René Lefebvre de Laboulaye, một nhà nghiên cứu về luật và là một chuyên gia về Mỹ. Những phần tử cộng hòa như Laboulaye bất mãn với chế độ hà khắc của Napoleon đệ tam và nhìn nước Mỹ bằng một thái độ ngưỡng mộ và khâm phục - một nước Mỹ cộng hòa thịnh vượng vừa trải qua một cuộc nội chiến và đang trên con đường trở thành một nước công nghiệp phát triển. Nước Mỹ đã giành được một sự cân bằng mong manh giữa tự do và ổn định, điều mà từ lâu nước Pháp không có được. Laboulaye đã hình dung ra một tượng đài sẽ làm sống mãi lý tưởng cộng hòa ở Pháp và thắt chặt hơn nữa tình hữu nghị giữa hai dân tộc có cùng lý tưởng đó. Nhận thức được giá trị biểu cảm kỳ diệu của con người làm biểu tượng tự do trong bức họa "Tự do soi đường cho nhân loại" của Eugene Delacroix, Laboulaye đã bàn bạc ý tưởng của mình với nhà điêu khắc Auguste Bartholdi. Năm 1871, Bartholdi đến Mỹ để đề xuất ý tưởng này và chọn địa điểm thích hợp để dựng tượng. Bức tượng là một món quà mang ý nghĩa đích thực dành cho nước Mỹ nhưng Bartholdi cũng biết rằng một biểu tượng mãnh liệt cho tự do như vậy sẽ là một ý tưởng đầy khiêu khích và không thể dung thứ đối với Napoléon ngay trên đất Pháp. Bartholdi cho rằng cảng New York - một cửa ngõ trọng yếu của nước Mỹ - sẽ là địa điểm thích hợp giúp bức tượng có được giá trị biểu trưng đúng nghĩa của nó.

Trong thời gian Bartholdi đang ở Mỹ, tình hình chính trị của Pháp đã góp phần giúp ý tưởng xây dựng bức tượng trở thành hiện thực. Sau khi Napoléon đệ tam bị phế truất khi Pháp thất bại trong cuộc chiến tranh Pháp - Phổ năm 1871, những người ủng hộ phái quân chủ và những người ủng hộ phái cộng hòa đấu tranh rất gay gắt. Laboulaye và những phần tử cộng hòa nhận thấy rằng bức tượng sẽ là phương thức tốt nhất để thiết lập nên ý tưởng một nước Pháp cộng hòa. Kế hoạch xây dựng tượng được đưa ra cuối năm 1874, vài tháng trước khi nước Pháp lại trở thành một nước cộng hòa. Vào thời điểm đó, tự do vẫn rất mong manh và phe cộng hòa hiểu rằng ý tưởng đó cần phải được thể hiện qua một hình ảnh tạo ấn tượng mạnh mẽ trong nhận thức của nhân dân. Người được giao nhiệm vụ này là Bartholdi, một nhà điêu khắc chịu ảnh hưởng của hai ý tưởng là tự do và sự khoáng đạt. Với cảm hứng từ những bức tượng khổng lồ đặc biệt là ở Ai Cập, Bartholdi muốn bức tượng thần Tự do phải tạo ra một cảm giác uy nghi, choáng ngợp. Sau khi dựng nên bức tượng mẫu bằng đất sét cao 1,25 mét, Bartholdi bắt đầu dựng tượng thật năm 1875. Ông nhân rộng mẫu nhiều lần cho đến khi ông có được 300 bộ phận của tượng với kích cỡ hoàn chỉnh. Da của tượng được làm theo quy trình ép với những tấm đồng dày 2,5 milimét được tán ra nối các đường viền của các bộ phận tượng bằng thạch cao. Vấn đề kỹ thuật do Gustave Eiffel phụ trách, một người vốn rất nổi tiếng về những kiến trúc cầu táo bạo. Một giàn giáo bằng sắt lớn đỡ một khung phụ để gắn các tấm sắt tạo da cho tượng. Da của tượng do đó sẽ "nổi" trên giàn giáo và chịu được gió to và cũng co giãn theo sự thay đổi của nhiệt độ. Sau khi được hoàn thành tháng 6 năm 1884, tượng đứng ở Paris cho đến khi được dỡ và đưa đến Mỹ đầu năm 1885.

Pháp chỉ đưa ra một điều kiện đối với Mỹ về món quà của mình, Mỹ phải chịu trách nhiệm xây dựng phần móng về bệ tượng do kiến trúc sư Richard M. Hunt thiết kế. Việc quyên góp tài chính bắt đầu năm 1877 và phần móng với khối lượng bê tông khổng lồ được khởi công năm 1883. Công việc này hoàn thành năm 1884 nhưng do không đủ kinh phí nên phần bệ tượng không thể hoàn thành được. Những người đóng góp khoản tiền lớn thì chê tượng về mặt thẩm mỹ trong khi dân chúng thì coi bức tượng là nỗi lo ngại và sự bông đùa đối với New York . Một người di cư từ là Joseph Pulitzer đứng ra đảm nhiệm việc gây quỹ. Thông qua tờ báo của mình "The World", ông lên tiếng chỉ trích việc người giàu không góp tiền và nhấn mạnh tầm quan trọng mang tính biểu tượng của tượng nhằm kêu gọi dân chúng đóng góp. Rốt cuộc, mội việc vẫn được hoàn tất vào ngày 28 tháng 10 năm 1886.

Tuy bức tượng rất vững chãi và dãi dầu mưa nắng nhưng vẫn cần được sửa chữa vào dịp kỷ niệm 100 năm vào năm 1986. Một nhóm các nghệ nhân Mỹ và Pháp đã tiến hành công việc trong hai năm, thay các đinh rivê và các thanh sắt mòn bằng thép không rỉ. Cánh tay của tượng vốn không được lắp đúng năm 1886 cũng được sửa lại. Ngọn đuốc được thắp sáng từ bên trong được thay bằng những tấm đồng phản sáng và vẫn giữ được ý tưởng nguyên thủy của nhà điêu khắc sản sinh ra nó.

Nhìn từ sóng nước lênh đênh cảng New York trên chuyến phà từ đảo Eilis, tượng Nữ thần Tự do kiêu hãnh đứng tách biệt là một bằng chứng vĩnh cửu về những giá trị cao đẹp của nhân loại và của tình hữu nghị Pháp, Mỹ nói riêng và xu hướng hòa bình, hữu nghị, hợp tác ngày nay trong quan hệ quốc tế nói chung.

New York , 8 - 1999
(Theo tài liệu của Cục công viên quốc gia Mỹ)

V.L.T.H
(134/04-00)






 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LỖ TẤN

    Nói đến đọc sách, tựa hồ đó là một việc rất rõ ràng, chỉ cầm đem sách ra đọc là được rồi. Nhưng không hề đơn giản như vậy. 

  • THUẬN AN

    (Đọc cuốn ký sự đường xa “18 tuổi và chuyến phượt solo đầu đời trên đất Mỹ” của Phạm Nguyễn Linh Đan, Nxb. Hội Nhà văn 2018).

  • (Để tưởng niệm thi sĩ Mary Oliver, vừa mất ngày 17 tháng 1, 2019, tại Florida, 83 tuổi)  

    ĐỨC TÙNG

  • CHU HUY SƠN

    Khó có thể kể hết những nhà thơ Việt Nam và thế giới bắt gặp cảm hứng từ cuộc đời cao đẹp và vô cùng trong sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để sáng tác nên những tác phẩm về Người. Song, tôi cho rằng, bài thơ “Hồ Chí Minh - tên Người là cả một niềm thơ” của nhà thơ Cuba là một trong những sáng tác hay nhất viết về Bác.

  • Sinh năm 1947 tại Rio de Janeiro, Brazil, 40 tuổi mới viết và xuất bản cuốn sách đầu tiên, Paulo Coelho được xem là nhà văn (còn sống) được đọc nhiều nhất thế giới: tuy số lượng tác phẩm đến nay chỉ trên 20 cuốn, nhưng đã phát hành đến 86 triệu bản tại 150 quốc gia, trong đó có nhiều cuốn luôn ở trong danh sách best- seller (số liệu tính đến tháng 6/ 2015). Ngày 22/12/2016, trong danh sách 200 tác giả có ảnh hưởng lớn nhất thế giới do công ty Richtopia đề xướng, Paulo Coelho được kể tên ở vị trí thứ 2.

  • WILLIAM D. ADAMS    

    LGT: William D. Adams hiện là học giả cao cấp tại quỹ hỗ trợ nhân văn và khoa học nghệ thuật lừng danh Andrew W. Mellon của Hoa Kỳ. Từ 2014 - 2017, ông được Tổng thống Obama (lúc đương nhiệm) bổ nhiệm giữ chức vụ chủ tịch Tổ chức Quốc gia về Nhân văn (NEH) - cơ quan độc lập của chính phủ tài trợ các dự án văn hóa, nghệ thuật, và giáo dục.

  • PABLO NERUDA    

    LGT: Pablo Neruda, nhà thơ Mỹ Latinh nổi tiếng thế giới, sinh năm 1904 tại Parral, Chile. Năm 1920 ông đến Santiago để học tập và công bố bài thơ đầu tiên “La canción de la fiesta” (1921), rồi được biết đến rộng rãi qua tập thơ “Crepusculario” (1923).

  • PHẠM THỊ PHƯƠNG THẢO  

    Tôi xin được dùng tên một bài thơ viết tại Paris của mình làm tựa đề cho bài viết này. Đó là những cảm xúc thăng hoa, những phút giây hạnh phúc và cũng là những kỷ niệm khó quên cùng bạn thơ của 24 quốc gia tham dự cuộc thi Slam thơ Quốc tế 2018 tại Paris tháng 5/2018 vừa qua.

  • PHẠM HỮU THU  

    Nhân loại kính nể không chỉ vì đất nước Nhật Bản bình tĩnh ứng phó thiên tai mà còn gây thiện cảm qua hành vi ứng xử của họ. 

  • NGUYỄN THANH VIỆT  

    Nguyễn Thanh Việt là nhà văn gốc Việt đoạt giải văn chương Pulitzer, tác giả của “The Sympathizer,” “The Refugees,” và “Nothing Ever Dies: Vietnam and the Memory of War.” Ông hiện là giáo sư Anh văn tại Đại học Nam California (Mỹ).

  • (T. Segers đặt câu hỏi, Hans Robert Jauss trả lời, Timothy Bahti dịch [sang tiếng Anh], Tạp chí New Literary History, Vol. 11, No. 1, Johns Hopkins University Press, 1979).

  • HENRY SLESAR

    Nhà văn nổi tiếng Henry Slesar (1927 - 2002) viết tiểu thuyết, kịch bản, trinh thám, khoa học viễn tưởng đặc sắc về thủ pháp hài hước, kết cục trái chiều. 

  • PHẠM ĐĂNG  

    Thế giới vừa vĩnh biệt một thiên tài: Stephen William Hawking.
    Ngày sinh của Hawking (8 tháng 1 năm 1942) đúng 300 năm sau ngày mất của Galileo Galilei (8 tháng 1 năm 1642). Ông qua đời (14/3/2018) vào ngày số Pi, cũng là ngày sinh của Albert Einstein (14 tháng 3 năm 1879).

  • Robert Arthur, Jr. sinh năm 1909, tại Philippines, nơi cha của ông, sĩ quan quân lực Hoa Kỳ, đóng quân. Tuổi thơ của ông cũng theo chân cha nay đây mai đó, có điều là ông không nối nghiệp cha (dù đã được nhận vào trường West Point), mà chọn học ngành văn chương.

  • HENRY JAMES   

    Henry James: Nhà văn Mỹ (1843 NewYork - 1916 Luân Đôn), viết tiểu thuyết, truyện ngắn, phê bình văn học; đặc biệt yêu văn học, nghệ thuật Pháp. Tác phẩm: 112 truyện ngắn (1864 - 1910), Toàn tập (1990 - 2009). Chủ đề: Ý thức, tâm lý; mơ mộng, tình cảm; vẻ đẹp, chân lý nghệ thuật.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

    Trước khi biết lòng tử tế là gì
    Bạn phải mất đi nhiều thứ

  • NGUYỄN DƯ

    Đọc Thơ Đường bất ngờ thấy bài Lương Châu từ của Vương Hàn (687 - 726):
    Bồ đào mĩ tửu dạ quang bôi
    Dục ẩm tì bà mã thượng thôi.
    Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,
    Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi.

  • PHẠM TRƯỜNG THI  

    Tôi và nhà văn Hà Phạm Phú nhận lời mời của Hội Nhà văn Việt Nam đi dự Hội thảo văn học quốc tế Trung Quốc và các nước lưu vực sông Mê Kông gồm: Myanmar, Lào, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam được tổ chức từ ngày 21 đến 25 tháng 5 năm 2017 tại thành phố Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây, khu tự trị dân tộc Choang Trung Quốc.

  • W.S. PEIRIS

    W.S.Peiris sinh 1932; đạt giải nhì truyện ngắn tiếng Anh trong cuộc thi Văn học quốc gia Tích Lan năm 2008. Hiện ông sống tại Kiribathgoda, Sri Lanka.