Nhà thơ Phạm Nguyên Tường
Một hành trình của cái thực và cái ảo, có lúc cùng song hành, có lúc đan quyện vào nhau, che khuất nhau, lấn lướt nhau… Trong hành trình ấy, ba nhân vật lần lượt xuất hiện: một người đàn ông kiếm tìm, một người đàn bà gồng gánh và một em thấp thoáng như một điều phiếm chỉ. Cùng xuất hiện, cùng biến mất rồi lại trở về, chỉ có em là đi xa hút hắt, “xa hơn mùi hoa lài một bước” là câu thơ gợi nhiều ám ảnh. Và những ám ảnh cứ theo nhau nảy sinh từ tất cả những gì mất đi, từ tất cả những gì nhận được, từ tất cả những gì tối tăm, từ tất cả những gì trong sáng, để cuối cùng còn lại một cảm giác nhẹ bẫng từ cuộc sống vốn triền miên trĩu nặng, như một sự siêu thoát, và cũng là một sự bắt đầu… Chẳng biết có nên gọi đây là thơ tình không. Tình gì mà cay nghiệt thế. Nhưng không phải thơ tình thì sao da diết thế. Có điều bảy khúc trong Quang gánh thì thực giống như bảy cái vía của người đàn ông đa tình để rồi mỗi lần trốn chạy lại là một lần tự thú, để rồi cứ thế “bóng thời gian quang gánh bóng con người”… Hà Nội 1-10-2000 LƯƠNG NGỌC AN PHẠM NGUYÊN TƯỜNG Quang gánh (Trường ca) “Con cừu non vấy máu trong rơm” Yves Bonnefoy 1. Những con đom đóm chộn rộn với ánh sáng của mình giờ cũng đã ngủ yên trong lòng rơm Em đã đi xa hơn mùi hoa lài một bước Mùi hoa đóng đinh sự trinh trắng của em Ngủ ngoan nào, Ấm Ức Đêm đang ngả màu gì Vũ điệu của gã trung niên nhàu nhò ban chiều Giờ đang đuỗn giấc Hay đang tìm sống một đời sống khác Không có những ánh nhìn lẩn khuất Không có những ánh nhìn quất ngược Không có những ánh nhìn dạt trôi Chỉ có nỗi buồn chỉ thiên từ ngón tay thứ sáu Gã trung niên điêu tàn Ngón thứ sáu nhập nhoàng đêm Hờn dỗi ném lên trời cho quạ rỉa Ngã tư này như một bát canh thiu Từ bao giờ Vây bủa anh ngày hai bữa Đêm đang ngả màu gì Âm thanh ngày qua chang chói Nằm yên dưới đáy chảo của người đãi vàng Ngào trong sương trời Vừa bết bát vừa lỡ làng Vừa hớ hênh vừa phũ phàng Anh đã nhìn thấy một âm thanh cuồng nộ nhất Độ một mi li mét vuông Là con ngươi của gã trung niên nhàu nhò ban chiều Đến hồi khát nước Đêm đang ngả màu gì Người đãi vàng mệt ngủ bên cây chà và Suối đầu nguồn khô cạn vào tận ruột Lời nhân ngãi đãi đằng nước bọt Người đãi vàng mơ thấy mình nằm thành trăm mảnh Dưới đáy chảo của một người đàn bà Cuống cuồng ly tâm Cuống cuồng ánh kim Trong mắt người đàn bà cười không có đáy Người đàn bà khôn ranh Người đàn bà hiền lành Người đàn bà buôn chuyến mưa dạ hành Một vốn bốn lời Nuôi những miệng ăn Hoang vu Trong trời đất Đêm đang ngả màu gì Giờ này dòng người đã cạn về đâu hết Chỉ còn lại gã trung niên người đãi vàng và người đàn bà buôn chuyến Họ tìm nhau ân cần Họ tìm nhau như tìm ân nhân Gã trung niên đến thăm người đãi vàng Trò chuyện về cơn điên Về nỗi buồn chỉ thiên Từ ngón tay thứ sáu Người đãi vàng gõ cửa người đàn bà buôn chuyến Cầu xin ăn nằm Để được cuống cuồng Ly tâm Và ánh kim trong mắt Để được lên chuyến tàu dạ hành Đi tìm suối đầu nguồn có nước Người đàn bà chân thành Mời cơm rượu... Và ba điều ước Người đàn bà phong thanh Chào hàng giông gió Đêm đang ngả màu gì Em đã đi xa cùng hoa lài đành một nhẽ Lúc ấy tuồng ba giờ Cây phong linh đầu hồi vì nỗi gì rung lên gióng giếc đánh thức gã trung niên người đãi vàng người đàn bà buôn chuyến tung họ lên ngờm ngợp không trung nhào nặn cuống cuồng ly tâm và ánh kim trong mắt Rồi hậm hực Chán chường Ném họ về một góc. 2. Ngã tư chia lòng người về trên những con đường sờn vai Hơi thở nhân gian chùng áp thấp Gã trung niên ngồi bên gốc cây xà cừ Với nỗi sầu mạnh thu Lá rụng trên áo người hay người rụng trên vàng lá Vũ điệu rời khỏi những ngón tay Trườn qua nhiều dãy phố Trườn qua những mái nhà Những khuôn mặt thị dân Đói ngủ Vũ điệu rồi xếp cánh Những đường gân cũng lụi tàn Trên bàn tay như sân khấu về khuya Chỉ còn gió thổi qua khoảng trống của một vai hề cổ điển Những nhân vật đang xoá đi lớp phấn cuối cùng Như người phu quét hết lá vàng Trên mặt đường dày vò Ậm ạch triền miên Những nhát chổi dày vò Từ những mùa mưa trước Bây giờ những ngón tay đã trở về với dáng vẻ bi hùng cô độc Của những cột trụ trời trong thần thoại xưa Cùng những khát vọng lâu bền Được xây đắp từ bình minh hái lượm Những hòn đá sinh thành hơi ấm Làm vinh phúc bầy đàn Vũ điệu thần linh gọi lửa Có còn sau chót đỉnh mây mù Mắt tiền nhân khép hờ di chỉ Mùa lễ hội man rợ đã im hơi Vũ điệu còn đi mãi Dọc những bờ suối tiệc tùng của hoa đỗ quyên Rạo rực mùa dâng hiến Rạo rực chú lùn Quấn quýt bóng giai nhân Vũ điệu còn đi Đường nhân gian người qua để bóng Trên vách đá đại ngàn Trên mái ấm tồi tàn Trên vòm động âm u Những hình nhân tăm tích tuyệt mù Nguệch ngoạc đùa chơi Với đá và lửa Trong hơi lạnh từng đêm Những ngón tay khơi từng đốm sáng Những ngón tay bầy đàn Hồn nhiên đời hái lượm Những ngón tay khum lòng gió Tiếng hú dài theo sông Thức dậy bản năng Gọi những nàng chim Lạc về bay đầy trời Khát vọng tình Cong đuôi lên mặt trống 3. Gã đi ra từ sương mù Khoác áo mù sương Ngồi lại đứng nghìn năm Vệt rừng rú chưa mòn nơi đáy mắt Gã lang thang dọc bờ bãi đầm lầy Hát bài ca lau sậy hoang vu Trên cánh đồng gieo vãi những hạt mầm phù sinh Gã trồng tỉa rồi hái lượm Những ngón tay bấu chặt đất đai Như đính ước hành trình thân phận Như mọc rễ vào cầm bằng số kiếp Đêm đêm Dưới tầng đất âm u Gã nằm gác tay vọng về đáy thẳm Gã đi tìm người anh em người họ hàng Để nhảy múa và ca hát Để đánh chén Những bữa tiệc phù sinh Gã đi tìm người đàn bà mắt cười không có đáy Để rủ rê người Đánh chén Hư vô Gã thấy mình nằm phơi xác bên vệ đường Trong cơn say thảng hốt Không ai đoái nhìn Sớm mai giăng mù sương như ngàn xưa Không ai cùng gã nằm phơi xác bên vệ đường Gã không còn nghe Tiếng đàn lya Của anh chàng Hy Lạp Những ngón tay của chàng bây giờ ở đâu Gã cùng người anh em đi qua miền phì nhiêu Để đọ súng để đấu bò Để giương cung để giết thịt Để soi tìm đáy mắt những người đàn bà cười Rủ rê vào đại hội Gã ngồi bên gốc cây xà cừ Tiệc phù sinh thừa mứa Gã ngửi thấy mùi thuốc súng Trên tóc trên mũi mình Ngửi thấy mùi xác chết Trên những ngón tay mình Gã ngụp lặn trên dòng sông tanh máu Những ngón tay rời rã đau thương Gã quay đầu chửi rủa người anh em người họ hàng Gã chửi rủa gã ngày hôm qua Đã chết trên dòng bi hương vô bờ Không có bông hoa nào thả trôi để cứu vớt linh hồn Chỉ đôi bờ ngàn lau phơ phất Quanh những nấm mồ mọc lên từng ngày Trên thân thể bạc màu Trên thân thể người giờ đây hoang vu Gã tìm thấy những vệt chàm khổng lồ Của Socrate của Darwin của Nietzsche Gã vớt xác mình Trên những dòng sông minh triết Gã ngồi tẩm liệm Những ngón tay lật từng trang sách Rồi gửi lời khấn nguyện Cho những ngón tay yên ổn về trời Những ngón tay dị hợm hình hài Những ngón tay văng ra ngoài cuộc Như bóng ngày tàn phai Khi bóng ngày tàn phai... Gã sẽ đi trên chuyến tàu tuồng ba giờ Ậm ạch lá và chữ Mùi hoa lài đã theo người về nơi xa tít Về một nơi đói khát cồn cào Về một nơi gọi chẳng ai thưa Nơi hơi thở nhân gian chùng áp thấp Nơi đụng độ nơi đọa đày Nơi quật ngã không tiếc thương Nơi giật nổ Ớn rung Nguồn khởi động 4. Đêm đã khuya trăng lên gội đầu cho những mái nhà yên ngủ Những mái nhà no đủ Những mái nhà tồi tàn Những mái nhà rúc đầu vào góc phố vắng tanh Như lũ trẻ con sau một ngày mệt mỏi Giờ ngủ vùi trong nách mẹ ngon lành Những mái nhà bồng bênh Những mái nhà cồng kềnh Những mái nhà trẻ trung tươm tất Những mái nhà già nua Những mái nhà oằn vai gánh tuổi Những mái nhà đầu bù tóc rối Những mái nhà chậm chạp bò đi Như đoàn tàu chở đầy giông gió Như đàn kiến đen trốn chạy mùa mưa tới Nhẫn nhục tự bên trong Những mái nhà những ngọn đèn chong Thức đợi mơ hồ Những mái nhà trở lật từng đêm Vì tiếng ngáy của chiếc then cài cửa Vì chiếu giường hoang thai dợn mửa Trên tay bà mụ buồn sầu Những mái nhà không chịu nổi đã bỏ đi Đốm sáng bệ thờ hiu hắt Mùi trầm hương thúc bách Những mái nhà đã bỏ đi Như châm chọc vào bóng đêm nông nổi Như mặc cả với bời bời gió thổi Những mái nhà đã bỏ đi Người đãi vàng ngơ ngác Người đãi vàng những lá vàng Giờ này còn ưu tư trên phố lạ Người đãi vàng những lá vàng quấy quả Đêm hôm trở lật mấy cho vừa Người đãi vàng đi nhặt nhạnh chiều xưa Nhặt nhạnh sau mưa Tơ vàng mấy sợi Suối nguồn xưa suối nguồn lắm nỗi Gập ghềnh khói bếp lương dân Nhặt nhạnh phù vân Trên da thịt trời xanh tái Nhặt nhạnh bến sông In bóng mặt người ái ngại Nhặt nhạnh nâu sồng Nhặt nhạnh mồ hôi Nhặt nhạnh chua ngoa Ba mặt một lời Nhặt nhạnh tay đôi nhặt nhạnh rã rời Nhặt nhạnh rừng thiêng nước độc Nhặt nhạnh sập hầm cơm hầm sốt rét Tay tật nguyền cầm tay chém giết Tay hận thù móc mắt trời xanh Tay yêu thương mềm yếu cả thân cành Tay đãi vàng tay lá vàng Tay chìa ra là tay đánh mất Tay rút về hoang vắng cả trăm gian Tay đãi vàng tay lá vàng Tay nhớ nhung tay họ hàng Tay tiếc thương tay bầy đàn Tay bẽ bàng tay bó gối Tay ăn nằm tay sám hối Tay trong tay Đầu kề tay gối Tay sẩy tay Sa sẩy bầy đàn Những ngón tay trở về gõ cửa nhà hoang Những ngôi nhà lành lạnh Những ngôi nhà thần thánh Bầy nhện giăng trêu chọc Tiếng mối đêm liếm láp bệ thờ Xóm ngụ cư của những bóng vật vờ Xóm ngụ cư của những kẻ hồ đồ Nơi đức tin cất từng mẻ lớn Nơi giáo điều mỗi ngày đánh bóng Những ngón tay hậm hực bỏ đi Ngón thứ sáu ngồi bên bậu cửa Buồn chỉ thiên gọi chẳng ai thưa Những ngón tay vật vã đường mưa Những ngón tay dị hợm hình hài Những ngón tay văng ra ngoài cuộc Những ngón tay cồn cào đói khát Những ngón tay không theo được hoa lài về nơi xa tít Người đãi vàng rơi rụng Những lá vàng siêm siếp trăng khuya Bầy đàn ơi, ngủ đi Bầy đàn ơi, ngủ đi Người đãi vàng khẽ hát Hát rằng... 5. Ùn vạn kỷ mắt em sầu chín tới Bóng thời gian quang gánh bóng con người Vai trĩu nặng ngàn cân nào cứu chuộc Một cái nhìn ráo hoảnh đến xa xôi 6. Trên da thịt người đi về mùa hoa dại nở Trên da thịt người hoang hóa Người đàn bà không cất nổi bước mình Người đàn bà mệt mỏi Suối đầu nguồn cạn khô Vì mắt người bao năm hoang phế Hơi thở bầy đàn xa vắng Tiệc phù sinh đóng cửa đôi bờ Còn sót lại những hòn đá ê chề Nặng nhọc trong tay người hái lượm Những hòn đá sinh thành hơi ấm Làm vinh phúc bầy đàn Người đàn bà với chuyến hàng mưa gió thở than Một vốn bốn lời Váy xống tả tơi Người đàn bà lạc không tìm ra lối Trên da thịt mình Trên những ngón tay mình hanh hao vẫy gọi Người đàn bà tóc tối Người đàn bà nuôi con Người đàn bà thờ chồng Người đàn bà quang gánh không công Từng tiếng ngáy của chiếc then cài cửa Những mùa thu đã chết trong sách vở Những mùa hoa đỗ quyên rạo rực động rừng Những mùa hoa bắp trổ bên sông Bóng còng lưng đem mây trời đổ biển Người đàn bà bao năm đưa tiễn Người đàn bà đi nhặt xác anh em Người đàn bà hom hem Người đàn bà nhá nhem Người đàn bà đội nhang lầm rầm khấn nguyện Người đàn bà chiến tranh Người đàn bà hậu chiến Gặp nhau tay bắt mặt mừng Chiều nay ngồi với trầu không Chiều nay chơi trốn tìm với chấy Tóc rối ren hãy ngồi yên đấy Đừng đi đâu đừng vội về trời Mẹ ru con mẹ ầu ơi Mẹ không nuốt lời Mẹ không giăng gió Mẹ không buồn nở Mẹ sợ con buồn Người đàn bà đi gối mỏi chân chồn Người đàn bà đi ái ngại nguồn cơn Trên thân thể héo hon Trên thân thể mỏi mòn Tiệc phù sinh im tiếng Chỉ còn nghe hơi lạnh bầy đàn Chạy dọc sống lưng lên gáy Gã trung niên ngồi bên gốc cây xà cừ Gặp nhau tay không buồn vẫy Vì những đường gân xanh lụi tàn Ngón thứ sáu đã bỏ đi Buồn chỉ thiên gối đầu bên bậu cửa Người đãi vàng đã ngủ Dưới những mái nhà lay lật bóng trăng khuya Người đàn bà đi chưa hết chưa bưa Tiệc phù sinh đợi người quét dọn Bóng phù sinh đổ từng mâm lớn Cuốn theo đuôi những nhát chổi dài Người đi nhặt nhạnh hoang thai Trên trang giấy của bà mụ buồn sầu Của Socrate của Darwin của Nietzsche Người vớt xác người Trên những nhành sông minh triết Những ngón tay trôi theo dòng xanh mải miết Những ngón tay hái lượm hồn nhiên Những ngón tay tật nguyền Những ngón tay bầy đàn tanh máu trường thiên Người đàn bà tay trắng Vuốt mặt đôi bờ Như thế tự ngàn xưa Như mắt người đàn bà cười không có đáy 7. Xin cảm ơn người đã cất giữ giùm tôi Hằng bao năm một khoảng trời đằng sau gáy Ở một nơi tôi hằng đêm mơ thấy Được trở về Va đập Một mình tôi Trút đôi quang gánh Những nhát chổi thôi dày vò giấy trắng Mọi ngả đường đã chết dưới mù trăng Những nàng chim Lạc giờ đây đã thôi không khóc than Trên những chuyến tàu dạ hành nặng nhọc Gã trung niên buồn sầu Người đãi vàng vạ vật Giờ đang đuỗn giấc Ở nơi xa Chỉ mình tôi trở lại Va đập khoảng trời đằng sau gáy Chỉ mùi bi hương từ tóc người xa xăm thổi mãi Chỉ đôi mắt người khép bóng chiều hôm Và những ngón tay người Cổ sơ ký hiệu Những ngón tay trì níu Những ngón tay rã rời Những ngón tay vang lừng vũ điệu Mùa lễ hội man rợ đã im hơi Mùa bầy đàn xa vắng Người rời khỏi những bờ suối tiệc tùng của hoa đỗ quyên Trở về mở cửa Những mái nhà tồi tàn Những mái nhà bất an Như giấc ngủ người đêm hôm khó nhọc Người gọi dậy những âm thanh cuồng nộ nhất Trong mắt bà mụ buồn sầu Trên những trang giấy bạc màu Người gọi từng cơn khát Người gọi hoang thai màn trời chiếu đất Người gọi mùa chớp giật Người gọi bão giông Người gọi trời nồm Người gọi người quăng quật Người gọi người cứu vớt Người gọi người bèo dạt mây trôi Người gọi hoang vu Người gọi tơi bời Người gọi tan đàn xẻ nghé Người gọi người sứt mẻ Người gọi tôi xa xăm vạn kỷ Người gọi tôi suốt bãi sông chiều Người gọi tôi mộng mị đìu hiu Người gọi tôi đừng đi xa thế Người gọi cho ăn Người gọi vỗ về Người ru ngủ Người mớm chữ Những ngón tay nắn nót vuông tròn Những ngón tay âm sắc khơi dòng Những ngón tay gọi vía cầu hồn Chữ vang động ở những bờ bến khác Chữ vang động không nhìn rõ mặt Chữ vang động khôn thiêng lần thứ nhất Chỉ những ngón tay người nắm bắt Những ngón tay người ký hiệu hồn nhiên Những ngón tay người chăn dắt Con cừu non vấy máu trong rơm Xin cảm ơn người cất giữ đã bao năm Hư hoặc khoảng trời đằng sau gáy Để một nơi tôi hằng đêm mơ thấy Được trở về Va đập bóng song thai Được trở về nghiêng lệch bờ vai Thả mình bắt bóng ...Về nơi đói khát cồn cào Về nơi gọi chẳng ai thưa Nơi hơi thở nhân gian chùng áp thấp Nơi đụng độ nơi đọa đày Nơi quật ngã không tiếc thương Nơi giật nổ Ớn rung Nguồn khởi động. Huế- Hà nội 1999-2000 (142/12-00) |
...sông vẫn xanh màu xanh thuở ấykhác là bây giờ bên sông nhà chọc trời soi bóngô tô đan kín đại lộ lấp loáng nắng trưahình như gió xưa đang háthoa bằng lăng tím lối qua cầu...
LƯU LYTên thật: Trần Thị Vân Dung, sinh ngày 28.8.1978 tại Thanh Chương, Nghệ An.Thơ Lưu Ly là sự giãi bày nỗi niềm của một tâm hồn đa cảm mà đơn phương... Sự chân thành mộc mạc của tác giả sẽ mang lại cho người đọc chút “hương đồng gió nội” thật hiếm hoi trong dòng thơ hiện đại.
...Có nơi nào như đất nước tôitiếng trống tràng thành cũng lung lay bóng nguyệtthiếu phụ tiễn chồng ra trậnđêm trở về nằm gối nửa vầng trăng...
Trà Mi vốn là bí danh có từ thời hoạt động nội thành của Nguyễn Xuân Hoa được anh “nối mạng” vào “thương hiệu” thơ khi cái đẹp bừng nở trong tuệ giác.Dù không lấy thơ làm cứu cánh nhưng nó vẫn là một hằng số tâm linh đối với bất cứ ai trong mỗi một chúng ta. Sự tung hứng giữa cảm xúc và trí tuệ, sự cộng hưởng giữa truyền thống và hiện đại, sự bức xạ giữa ý tưởng và ngôn ngữ được coi như một nguyên tắc đồng đẳng trong thi pháp thơ Nguyễn Xuân Hoa.Nguyễn Xuân Hoa sinh năm 1947 tại Quảng Điền, TTHuế. Hiện là tỉnh uỷ viên, giám đốc Sở Văn hoá Thông tin TTHuế.Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc chùm thơ mới của anh.
...Em đã lấy những gìmà Chúa không cần nữaNgười đã ban tặng emMột tình yêu đau khổ...
Cách đây 700 năm, vào năm 1306, vua Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua Champa, bờ cõi Đại Việt được mở rộng. Hai châu Ô, Lý được vua Chế Mân cắt để làm sính lễ dâng vua Đại Việt. Sau đó, hai châu này được đổi thành châu Thuận và châu Hóa. Thuận Hóa được hình thành từ cơ sở đó.Những bài thơ chữ Hán viết về vùng đất này sớm nhất có thể kể đến như Hóa Châu tác (Làm ở Hóa Châu) vào khoảng năm 1354 của Trương Hán Siêu (?-1354); Hóa Thành thần chung (Chuông sớm ở Hóa Thành) của Nguyễn Phi Khanh (1355-1428); Tư Dung hải môn lữ thứ (Nghỉ chân ở cửa biển Tư Dung) của Lê Tư Thành (vua Lê Thánh Tông 1442 - 1497)... Nhân kỷ niệm 700 năm Thuận Hóa - Phú Xuân - Thừa Thiên Huế (1306 - 2006) TCSH trân trọng giới thiệu cùng độc giả ba bài thơ này.HẢI TRUNG giới thiệu
Đá Hạ Long đa tình hóm hỉnhNên mái cong đuôi trống xoè lôngTrời và nước hồng hoang kết dínhSóng nôn nao như tiếng vợ gọi chồng...
...đêm bình yên linh hồn nương náusao ta một mình thao thứcsao ta một mình lay gọilối nào tới ban mai?...
...khoảng vườn xanh xưatrồng toàn cây cẩm túnở một bông thôi cũng đủ nhớ thương người...
...từng hàng cỏ mọc bon chencôn trùng nương náu cũng quen lâu rồi...
LTS: Nguyễn Xuân Hoàng viết nhiều, viết đủ các thể loại nhưng tác phẩm đã công bố phần lớn là truyện ngắn, bút ký, tản văn, tiểu luận v.v... còn thơ thì ít khi xuất hiện. Song, có lẽ thơ mới là “ngọc châu” trong văn nghiệp của anh. Những bài thơ gần đây được Hoàng viết ra như một sự dự phóng điềm gở của định mệnh.Khắc khoải yêu thương, khắc khoải đợi chờ là tâm trạng của Hoàng được “mã hoá” trong chùm thơ mà Sông Hương vừa tìm thấy trong di cảo của anh.
...Xin hãy để ta mơ về Hợp NhấtLòng bản thể thẳm sâu hòa điệu giữa lòng ta...
LÊ HUỲNH LÂMSinh năm 1967, tại Phú Vang - Thừa Thiên Huế; Kỹ sư tin học (ĐH Bách Khoa Hà Nội). Tác phẩm đã in: Sông hoa (tùy bút)....ấy là một khuôn mặt trầm tư? U uất? Khuôn mặt với đầy đủ đặc tính của một “triết gia bi đát”. Bây giờ, những ngôn từ mà anh dày công nhào nặn đã ý thức hơn về vị thế của mình trong đoản - khúc - người, và chúng không còn cưỡng bức xác thân anh đi ngược chiều nhân loại nữa. Những ngôn từ (bị dòng đời ám ảnh) đã tự sắp đặt thơ. Bây giờ, thơ trở thành tính từ của thân phận mỗi khi cõi lòng anh lên tiếng...Sông Hương xin chuyển tới bạn đọc ba “cột thơ” rút từ ngôi nhà của anh.
...Không còn ở trong vòm cửa hẹpCả khoảng không bừng sáng quanh ta...
...Tiếng aiTrong gióHú dài…
LGT: Như một chuyến hành hương về nguồn cội, với nghĩa cử cao đẹp, Công ty Văn hoá Trí tuệ Việt đã cho ra đời tập sách HUYỀN THOẠI TRƯỜNG SƠN, gồm nhiều thể loại như bút ký, hồi ký, thơ, nhạc,... Đặc biệt hơn hết là danh sách đầy đủ, chính xác của 10.263 anh hùng liệt sĩ yên nghỉ tại Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn.
Sông Hương xin trân trọng giới thiệu tới bạn đọc những dòng thơ được thắp lên từ HUYỀN THOẠI TRƯỜNG SƠN - như một nén nhang gọi hồn những người đã ngã xuống!
LGT: Trong cuộc đi tìm mình khắc khoải ở trời , Nguyên Quân mang theo những u uẩn của quá nửa phần đời để mỗi buồn ngồi gặm nhấm. Chắc hẳn cũng nhờ vậy, anh đã làm được một điều không dễ - ấy là gọi tên đúng nỗi buồn giữa mênh mang thi phú...Sông Hương xin giới thiệu chùm thơ của Nguyên Quân mà hai trong số đấy sẽ được tuyển vào 700 năm thơ Huế.
Hơn một năm trước, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ giương cao Lá cờ trắng. Nhưng dường như đấy chỉ là hình thức “trá hàng” của một nàng thơ giữa độ hồi xuân.Không hiểu tự bao giờ, loài cúc dại đã cắm rễ vào cõi hồn đa mang của chị hút đến cả nỗi đau dung dưỡng xác thân trong kiếp luân hồi đầy khổ nạn. Tập thơ mới nhất của chị, là sự bung nở của vô vàn cúc dại, để trí nhớ đất này thêm những phút thăng hoa...
HẠ NGUYÊN* Sinh năm 1966 tại Hương Cần - Hương Trà - TT. Huế* Hội viên Hội Nhà báo Việt , Ủy viên BCH Hội Nhà báo Thừa Thiên Huế khóa IV (2007 - 2012).* Hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế* Có nhiều tác phẩm in chung trong các tuyển tập: “20 truyện ngắn và ký 1975 - 1995”, “25 truyện ngắn và ký 1975 - 2000”, “Thời gian và nỗi nhớ”, “Trịnh Công Sơn - cát bụi lộng lẫy”, “Thừa Thiên Huế trong cơn đại hồng thủy (2000)” v.v.
NGUYỄN THIỀN NGHITên thật là Nguyễn Bồn, sinh năm 1948 tại Phú Vang, Thừa Thiên Huế.Hội viên Hội Nhà văn TT.Huế.Hiện là giáo viên của Trung tâm Giáo dục thường xuyên Hương Thuỷ.