Quan trường xưa và nay

16:39 28/11/2008
TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

Mỗi người một ý, nhưng cuối cùng đều thống nhất rằng: trong chuyện giáo dục, học hành và quan trường, giữa XƯA và NAY, có 3 điều khác biệt cơ bản, tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. Đó là:
- Thứ nhất, XƯA, nam nhi lập thân theo phương châm Tiến vi quan, thoái vi sư; còn NAY thì Tiến vi sư, thoái vi quan.
Trong xã hội cũ, người ta dùng sự học để lập thân và thay đổi địa vị xã hội. Bằng tài học, thông qua con đường khoa cử, người ta hy vọng bước một bước dài từ tầng lớp bị trị lên hàng ngũ thống trị. Mục đích cuối cùng của sự học là để ra làm quan. Khi triều đại phong kiến hưng thịnh, quyền lợi của giai cấp thống trị phù hợp với quyền lợi của đông đảo nhân dân, thì những người đã học hành thành đạt phải ra làm quan để giúp dân, giúp nước. Tuy nhiên, khi giai cấp thống trị đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân, xã hội lâm vào khủng hoảng, rất nhiều ông quan đã xuất xử kịp thời, đúng với đạo hành tàng của Nho gia, lui về trí sĩ. Họ trở lại làm thầy để dạy dỗ thế hệ trẻ, cũng là để phản ứng với triều đại bất chính mà họ từng phụng sự. Những tấm gương: Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm... là những minh chứng sống động cho phương châm Tiến vi quan, thoái vi sư ấy.

Ngày nay thì khác, rất nhiều quan chức trong bộ máy công quyền vốn xuất thân từ nghề giáo. Trước tiên, họ đi học để làm thầy (chứ không phải để làm quan). Sau đó, do tài năng của họ, hoặc do cơ cấu, hoặc đôi khi, do hợp “cạ” với cấp trên, họ được đề bạt làm quan chức. Người thầy có tài, có tâm, nay ra làm quan, biết đem cái sở học, sở đức của mình mà giúp dân giúp nước, thì dân và nước được nhờ. Nhưng số này, theo đánh giá chung, thì ít lắm. Nhiều người thầy tuy có tài và có tâm, nhưng khi dấn thân vô chốn quan trường, phải họp hành, công tác (thậm chí phải nhậu nhẹt) liên miên, nên không có thời gian trau dồi tri thức. Kết quả là học hàm, học vị, chức vụ đều thăng tiến, chỉ có tri thức là suy thoái. Trong khi đám học trò của họ, do trẻ hơn nên có sức khỏe, chịu khó đi đây đi đó để thâu nạp kiến thức; có khả năng nắm bắt ngoại ngữ nhanh hơn; lại biết xài computer, nên đã download được những tri thức tiên tiến của nhân loại để phục vụ cho sự nghiệp của mình. Đến đây, bi kịch bắt đầu xảy ra: nhiều vị quan gốc sư ấy thấy trò giỏi hơn mình nên ganh tị, thậm chí ngăn chặn, kìm hãm; cái sự Thoái vi quan bắt đầu hiện rõ nguyên hình.

- Thứ hai, XƯA, phải đỗ đạt mới được bổ ra làm quan; còn NAY thì ra làm quan rồi mới tính kế đỗ đạt.
 
Ngày trước, người giữ các chức quan trong bộ máy cai trị phải trải qua chuỗi ngày “sôi kinh nấu sử” và được “sàng lọc” qua các kỳ thi hương, thi hội, thi đình, rồi mới có điều kiện gia nhập chốn quan trường. Tuy nhiên, số người đỗ đạt cao như tiến sĩ, trạng nguyên... không nhiều lắm. Phần lớn quan chức ngày xưa chỉ đỗ hương cống, cử nhân... nhưng không vì thế mà “sở tri”, “sở trí” của họ bị hạn chế và sự nghiệp làm quan của họ bị ảnh hưởng. Nhà Nguyễn cầm quyền 143 năm của, tổ chức 39 kỳ thi hội chỉ chọn được 293 vị tiến sĩ. Thế nhưng trong số 293 vị tiến sĩ ấy, có nhiều người vì các lý do khác nhau, đã không ra làm quan, hoặc chỉ làm quan một thời gian ngắn thì treo ấn từ quan, nhưng danh thơm của họ vẫn mãi lưu truyền hậu thế.

Ngày nay, nhiều quan chức của ta, được làm quan là do “cơ cấu”, dù học vấn và đạo đức của họ còn kém xa “phó thường dân”. Thậm chí, có người không qua trường lớp chính quy nào, tài cán cũng chẳng ra gì, nhưng nhờ các “cơ duyên” như: thành phần; lý lịch; các chính sách cơ cấu: vùng miền, nam nữ, sắc tộc...; chạy chọt, hay do đắc lợi trong các cuộc đấu tranh phe phái... bỗng dưng được cất nhắc, đề bạt và trở thành quan to. Sau khi đã là quan lớn, đám người này mới tính kế đỗ đạt, mà lại đỗ đạt rất cao, rất nhanh và cũng rất mờ ám. Theo số liệu của Bộ Giáo dục và đào tạo, đến tháng 6/2004, Việt Nam đã có 13.500 tiến sĩ, nhưng chỉ có khoảng 500 người (3,7%) có sản phẩm được quốc tế ghi nhận. (Nguồn: Phạm Lệ Bình, “Thất nghiệp ám ảnh tri thức trẻ”, Sinh viên Việt , Số 26, Tuần từ 30/6 đến 7/72004). Chỉ trong 60 năm của nền giáo dục XHCN, chúng ta đã đào tạo (và nhờ người khác đào tạo) được 13.500 tiến sĩ, gấp 46 lần số tiến sĩ nhà Nguyễn có được trong 143 năm tồn tại của triều đại này. Quả là một thành tích đáng khâm phục. Tuy nhiên, theo công bố của ông bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo hồi trước Tết Bính Tuất thì có đến 30% trong số 13.500 tiến sĩ kia là đồ “vô dụng”. Cũng chưa ai nghe có vị quan chức - tiến sĩ của ta nào từ chức cả. Ngược lại, họ luôn tìm cách nắm dấugiữ ghế cho đến khi sức tàn lực kiệt, mặc dù nhiều vị, đáng lý phải bị cách chức và tống ngục từ lâu do những sai phạm trong nghiệp làm quan của họ.

- Thứ ba, XƯA, quan chức hưu trí thường về quê mở trường hoặc lập chùa; còn
NAY, thì mở khách sạn và lập công ty.
Quan viên thuở trước khi về hưu dưỡng thường mở trường để “truyền bá sở học” cho con em nơi cố hương, hoặc lập chùa để “tích đức” cho dân tình nơi bản quán. Có nhiều vị sau khi hồi hưu thì vừa làm thầy giáo để truyền đạt kiến thức; vừa làm thầy chùa để trao truyền đức độ cho lũ trẻ nơi thôn dã. Có những người thầy còn thâu nhận học trò làm con, hoặc đối xử với học trò như với con cái của mình. Thầy cho trò chữ, cho cả cơm ăn, áo mặc, thậm chí cho cả hạnh phúc khi góp tay dựng vợ gả chồng cho học trò của mình.
Quan chức ngày nay, sau khi “hạ cánh an toàn” thì không ai mở trường, lập chùa nữa. Những của nả tích lũy và kiếm chác từ nhiều nguồn, bằng nhiều cách khác nhau, đã tạo cho họ nguồn vốn dồi dào để lập công ty hay mở nhà hàng, khách sạn, kinh doanh kiếm lãi. Thay vì tích lũy “sở học” và trao truyền “sở đức” cho lớp trẻ, những ông quan thời nay chỉ có một mục tiêu duy nhất là tích tụ tư bản cho con cái họ mà thôi.

Ô hô, sự khác biệt sao mà lớn quá. Mấy anh bạn rượu của tôi sau khi đúc kết những điều trên, thì tặc lưỡi bảo nhau: “Thời nào, thế đó”, rồi cùng nhau ngữa cổ dốc cạn chung rượu, kết thúc cuộc nhàn đàm.
Bỗng nhiên tôi thấy một người trong số họ lén rút khăn tay lau nước mắt. Có phải anh ta vì say mà khóc không nhỉ?
                        T.Đ.A.S.

(nguồn: TCSH số 207 - 05 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MAI VĂN HOAN

    Ngôn ngữ nói chung và chữ tôi nói riêng, khi bước vào tác phẩm văn học cũng có số phận thăng trầm liên quan mật thiết đến những thăng trầm của lịch sử nước nhà. Tìm hiểu chữ tôi trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam là một đề tài khá lý thú. Ở bài viết này, tôi chỉ đi sâu khảo sát chữ tôi được thiên tài Nguyễn Du sử dụng trong tác phẩm Truyện Kiều.

  • NGÔ MINH

    Bản lĩnh văn hóa là cuốn sách gồm các bài báo và tiểu luận của nhà văn Tô Nhuận Vỹ do Nxb. Tri thức ấn hành năm 2014. Tôi đọc một mạch với sự xúc động và hứng khởi.

  • LÝ HOÀI THU

    Thôn ca (1944) của Đoàn Văn Cừ là bức tranh thơ sống động về con người và cảnh vật của không gian văn hóa Sơn Nam - Bắc Bộ.

  • NGUYỄN ĐỨC DƯƠNG

    Độc giả trẻ thời nay không ít người sẽ hết sức ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng Truyện Kiều, thiên tiểu thuyết bằng thơ dài tới 3.254 câu với cả thảy 22.778 lượt dùng từ, nhưng lại chẳng hề có qua một chữ NẾU nào, tuy rằng nghĩa “ĐIỀU KIỆN” và/hay “GIẢ ĐỊNH”, vốn được diễn đạt bằng NẾU (hoặc các biểu thức ngôn từ tương đương) trong tiếng Việt đương đại là một trong những nghĩa phổ quát (tức mọi thứ tiếng đều có) và ít thấy một thứ tiếng nào lại vắng các phương tiện riêng để biểu thị.

  • ĐINH VĂN TUẤN

    Trong số mấy bài thơ chữ Nôm còn lại của Bà Huyện Thanh Quan, bài thơ “Qua Đèo Ngang” là bài thơ gần đây được tranh luận nhiều nhất về chữ nghĩa, đặc biệt là về từ ngữ “cái gia gia”(1).

  • KHẾ IÊM

    Tựa đề về cái chết của hậu hiện đại không có gì mới vì đã có khá nhiều bài viết bàn về vấn đề này, từ những đầu thập niên 1990. Nhưng bài viết đã phác họa cho chúng ta thấy đời sống văn hóa trong thời đại sau chủ nghĩa hậu hiện đại với sự xuất hiện những phương tiện công nghệ mới. Lạc quan hay bi quan, chúng ta chưa biết, nhưng rõ ràng những hệ tư tưởng cũ đang dần dần bị tàn phai nơi những thế hệ mới.

  • ALAN KIRBY

    LTS: Alan Kirby nói chủ nghĩa hậu hiện đại đã chết và đã được chôn. Tới thế chỗ của nó là một hệ hình mới của thẩm quyền và kiến thức được hình thành dưới áp lực của những công nghệ mới và các lực lượng xã hội đương đại. Tựa đề bài tiểu luận, lần đầu tiên xuất hiện trên tạp chí Philosophy Now (Triết học Bây giờ) ở Anh, số 58, năm 2006, và sau đó được in trong cuốn “Digimodernism: How New Technologies Dismantle the Postmodern and Reconfigure Our Culture”, được Continuum xuất bản vào năm 2009.

  • LÊ QUỐC HIẾU

    Trong các bộ phận của khoa nghiên cứu văn học Việt Nam hiện nay, không thể phủ nhận lý luận, phê bình là lĩnh vực có nhiều thay đổi rõ rệt. Một loạt những công trình nghiên cứu lịch sử lí luận, phê bình văn học “trình làng” trong những năm qua[1], đủ để nhận thấy tham vọng khái quát, đánh giá của các nhà nghiên cứu sau mỗi chặng đường phát triển của văn học.

  • THÁI KIM LAN
    I.
    Bài viết này được mở đầu bằng một trải nghiệm tự thân, từ chỗ đứng của chủ thể thực hành nói ra kinh nghiệm của mình, vì thế có thể gây ấn tượng về tính chủ quan. Sự trách cứ ấy xin nhận lãnh trước, nhưng xin được tạm thời để trong dấu ngoặc.

  • LUÂN NGUYỄN

    Nhất đình sơn vũ luyện hoa khai
                 (Mộ xuân tức sự - Nguyễn Trãi)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    (Trích tham luận tại Hội thảo "Văn học trước yêu cầu đổi mới" tháng 12-1987)

  • BỬU CHỈ

    Đã từ lâu tôi vẫn nghĩ và tin rằng: quê hương của nghệ thuật là Tự Do, và nghệ thuật đích thực phải thoát thai từ những con người sáng tạo có đầy đủ quyền làm người, cùng tinh thần trách nhiệm đối với cộng đồng xã hội của họ; và lớn hơn nữa là đối với con người.

  • LÊ QUANG THÁI

    Năm Quý Tỵ đã trôi qua, Xuân Giáp Ngọ đã về:
    Rắn trườn đã hết năm,/ Ngựa hay đưa Xuân về.(1)

  • ĐỖ LAI THÚY

    Kìa ai chín suối xương không nát
    Ắt hẳn nghìn thu tiếng vẫn còn
                   
    (Nguyễn Khuyến)

  • TRẦN HUYỀN TRÂN

    Có lẽ, Cám dỗ cuối cùng của Chúa là cuốn tiểu thuyết nói về khoái lạc trần tục của Jesus một cách táo bạo nhất?

  • NGUYỄN DƯ

    Hôm ấy bạn bè họp mặt ăn uống. Chuyện nổ như bắp rang. Tôi khoe mình đã từng ba lần đội trời đạp đất trên đỉnh đèo Hải Vân. Một bạn hỏi đèo Hải Vân có gì đặc biệt? Câu hỏi bất ngờ làm tôi cụt hứng. Ừ nhỉ… đèo Hải Vân có gì đặc biệt?

  • PHAN TUẤN ANH

    “Lịch sử như là đem lại ý nghĩa cho cái vô nghĩa”
                                                               (T.Lessing)

  • Ngày nay, nhìn lại chủ trương cách mạng của Phan Châu Trinh cách đây hơn một thế kỷ, một lần nữa chúng ta lại thấy tầm nhìn của một người mang khát vọng Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh.

  • NGUYỄN THỊ TỊNH THY

    Sau khi đọc bài trao đổi của Triệu Sơn trên tạp chí Sông Hương số 10/2013 về bài viết của tôi trên tạp chí Sông Hương số 8/2013, tôi xin có mấy ý trả lời như sau: