Hàn Mặc Tử và những người tình trong thơ - Ảnh: Internet
Thuở nhỏ học ở Quãng Ngãi, khi cha chết, mẹ dọn về Qui Nhơn, ở đây Hàn Mặc Tử tập làm thơ Đường luật (lúc 16 tuổi) lấy bút hiệu là Minh Duệ Thị. Học trường Qui Nhơn đến năm thứ ba, ra Huế học tại trường dòng Pellerin. Hàn Mặc Tử đăng thơ trên báo Phụ Nữ Tân Văn, Sài Gòn với bút hiệu Phong Trần. Thời gian này kinh tế gia đình sa sút. Hàn Mặc Tử đi làm Sở Đạc Điền một độ rồi vào Sài Gòn làm báo. Năm 1936 khi chủ trương tờ phụ trương văn chương báo Sài Gòn, lấy bút hiệu Hàn Mặc Tử (Rèm Lạnh). Nhà thơ Quách Tấn góp ý đổi thành Hàn Mặc Tử (Bút mực) Tập thơ Đường luật mang tên “Lệ Thanh Thi Tập” có 3 bài Thức Khuya, Chùa Hoang, Gái Ở Chùa được Phan Sào Nam họa vận lại. Năm 1936 tập thơ Gái Quê xuất bản là bước chuyển hướng sang Thơ Mới. Cuối năm 1936, Hàn Mặc Tử đi chơi Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Phan Thiết rồi định vào Sài Gòn tiếp tục làm báo thì phát bệnh nên về lại Quy Nhơn. Cuối năm 1937 gom góp khoảng 50 bài thơ làm trên giường bệnh được Hàn Mặc Tử gọi là Thơ Điên (gồm 3 phần: Hương Thơm, Mật Đắng, Máu Cuồng và Hồn Điên) mang chung một nhan đề: Đau Thương. Tiếp đến là Xuân Như Ý (1939), Thượng Thanh Khí (1940). Mùa hạ 1938, thấy bệnh tình khó qua khỏi, gia cảnh càng sa sút, Hàn Mặc Tử sau nhiều lần do dự đã quyết định vào bệnh viện phong Qui Hòa chữa trị và mất tại đó. Hàn Mặc Tử có một vài lần bàn về thơ và người làm thơ. Theo thi sĩ thì “Người thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo”; “Tôi làm thơ nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng”; “Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú. Có ai ngăn cản được tiếng lòng tôi!” (Tựa Thơ điên); “Thơ là sự ham muốn vô biên những nguồn khoái lạc trong trắng của một cõi trời cách biệt” (Quan niệm về thơ)... Riêng tôi, tôi hết sức tâm đắc với câu: Máu đã khô rồi thơ cũng khô trong bài Trút linh hồn. Hình như linh cảm trước cái chết, một số nhà thơ đã soạn sẵn những lời di chúc. Puskin có Đài kỉ niệm, Êxênin có bài thơ tuyệt mệnh viết bằng máu... Bài Trút linh hồn nằm trong tập Thơ Điên là một trong những tập thơ hay của Hàn Mặc Tử. Thơ Điên ra đời trong hoàn cảnh thi sĩ lâm vào căn bệnh hiểm nghèo cùng lúc mối tình đang nồng thắm, bỗng “chết yểu”. Đau thương chồng chất đau thương! Chính trong những tháng ngày bi đát ấy, Hàn Mặc Tử dường như đã tiên cảm sự ra đi của mình nên đã viết sẵn những lời trăn trối nhắn gửi với người yêu đồng thời bày tỏ quan niệm về thơ của mình với mọi người. Máu đã khô rồi thơ cũng khô! Hàn Mặc Tử khẳng định một chân lí trong lĩnh vực sáng tạo thi ca bằng cách thơ hết sức giản dị. Chân lí ấy được đúc kết vẻn vẹn trong bảy chữ. Tôi đã đọc khá nhiều bài viết trao đổi về thơ gần đây. Ở những bài viết ấy tôi đã học được nhiều điều. Nhưng không hiểu sao tôi cứ ám ảnh bởi cách nói của Hàn Mặc Tử. Thi sĩ không lí luận dài dòng, không làm ra vẻ cao siêu, uyên bác mà nói một cách thật dễ hiểu, thật ấn tượng: Máu đã khô rồi thơ cũng khô! Có thế thôi, nhưng để đúc kết được bảy chữ ấy, Hàn Mặc Tử đã trải qua bao tìm tòi, suy nghĩ, trăn trở. “Máu” ở đây không chỉ là sự sống mà còn là sức sống, là nhiệt huyết của người làm thơ đối với cuộc đời. Khi người làm thơ không còn nhiệt huyết nữa có nghĩa là anh ta nên gác bút. Vì nếu có gắng gượng viết thì cũng chỉ “đẻ” ra những xác chữ khô cứng mà thôi. Chữ có thể “bầu lên nhà thơ” khi chữ đó đã thấm qua “máu”, chứ không phải là thứ chữ được chế tác bằng một trái tim nguội lạnh. Nếu chữ chỉ được chế tác bằng một trái tim nguội lạnh thì chẳng qua đó là mớ chữ vô hồn. “Máu” đúc nên chữ, rồi chữ tạo ra thơ. Tất nhiên, đã là nhà thơ đúng nghĩa thì không thể coi thường chữ nghĩa. Hàn Mặc Tử nói: “Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú”. Điều đó có nghĩa là thơ phải xuất phát từ những cảm xúc chân thật. Cái dễ nhận nhất là sự giả tạo trong thơ. Có người chẳng đau đớn gì nhưng thấy thiên hạ rên mình cũng la oai oái. Những tiếng kêu giả, khóc vờ ấy khó lòng qua mắt những độc giả tinh tường. Trong quá trình sáng tạo nhà thơ có thể bịa ra, có thể tưởng tượng ra nhiều thứ. Nhưng phải bịa, phải tưởng tượng trên cơ sở tình cảm chân thực. Lúc đó bịa, tưởng tượng mới “như thật” và còn hơn “như thật” về mặt giá trị thẩm mỹ. Trong bài Trút linh hồn, Hàn Mặc Tử viết: Ta trút linh hồn giữa lúc đây đó là điều thi sĩ tưởng tượng ra. Bởi sự thật thì mãi khi vào nhà thương Quy Hòa đúng ngày 11 tháng 11 năm 1940, Hàn Mặc Tử mới “trút linh hồn”... Thế nhưng người đọc vẫn tin sự tưởng tượng ấy là chân thực. Ở Phan Thiết! Phan Thiết! nhà thơ thả trí tưởng tượng bay bổng lên “chín tầng trời”: Nhớ khi xưa ta là chim phượng hoàng Vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất Bay từ Đao Ly đến trời Đâu Suất Và lùa theo không biết mấy là hương Lúc đằng vân gặp ánh sáng chặn đường Chạm vào nhạc va nhằm thơ thiên cổ Ta lôi đình thấy trăng sao liền mổ Sao tan thành rơi xuống vũng chiêm bao Trăng tan tành rơi xuống một cù lao Hóa đài điện đã rất nên tráng lệ... Cả bài thơ là tiếng rên “xuất phát từ bề sâu của một linh hồn tuyệt vọng” (Hoàng Diệp). Vì thế nó hết sức chân thực. Nỗi đau đớn trước mối tình “chết yểu” với Mộng Cầm đã khiến cho thi sĩ như điên như dại: Người đi, một nửa hồn tôi mất Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ. ... Tôi vẫn còn đây hay ở đâu? Ai đưa tôi bỏ dưới trời sâu? Sao bông phượng nở trong màu huyết Nhỏ xuống lòng tôi giọt lệ châu (Những giọt lệ) Và: Nghệ hỡi Nghệ muôn năm sầu thảm Nhớ thương còn một nắm xương thôi Thân tàn ma dại đi rồi Rầu rầu nước mắt, bời bời ruột gan. (Muôn năm sầu thảm) Hàn Mặc Tử hết sức trân trọng thơ của Mai Đình, chủ yếu cũng vì cảm xúc chân thực của nàng: Thơ em cũng giống lòng em vậy Là nghĩa thơm tho như ánh trăng Mềm mại như lời tơ liễu rủ Âm thầm trong áng gió băn khoăn. Bởi thế mà thi sĩ: Anh đã ngâm và đã thuộc làu Cả người rung động bởi thương đau Bởi vì mê mẩn vì khoan khoái Anh cắn lời thơ để máu trào. (Lưu Luyến) Nguyễn Du tả tiếng đàn nàng Kiều trong bữa tiệc “mừng công” khi Hồ Tôn Hiến vừa giết Từ Hải: Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay. Máu nhỏ năm đầu ngón tay là Nguyễn Du tưởng tưởng ra, nhưng rất chân thật, vì Nguyễn Du đã nói được nỗi đau đớn tột đỉnh của nàng Kiều. Hàn Mặc Tử làm thơ bằng máu huyết của mình: Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút Mỗi hồn thơ đều dính não cân ta Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt Như mê man chết điếng cả làn da. (Rướm máu) Cả niềm yêu, ý nhớ cả một vùng Hóa thành vũng máu đào trong ác lặn (Trường tương tư) Nên hơn ai hết, thi sĩ hiểu một cách sâu sắc rằng: Máu đã khô rồi thơ cũng khô! Chân lí này không phải được đúc kết qua sách vở mà qua thực tế sáng tác của chính nhà thơ. Trái tim Hàn Mặc Tử chưa bao giờ lãnh cảm trước cuộc đời. Ngay đến giây phút sắp “trút linh hồn”, thi sĩ vẫn yêu cuộc đời đến day dứt. Mặc dù cuộc đời đã đem đến cho Tử bao mùi vị cay đắng. Nói như ca dao: Thương mình lắm lắm nhiều nhiều Còn mình thương lại bao nhiêu mặc lòng. Cuộc đời có cay nghiệt với Hàn Mặc Tử đến mấy thi sĩ vẫn cứ trìu mến, vẫn cứ vấn vương, vẫn cứ luyến tiếc: Ta còn trìu mến biết bao người Vẻ đẹp xa hoa của một thời Đầy lệ, đầy thương, đầy tuyệt vọng Ôi! Giờ hấp hối sắp chia phôi! (Trút linh hồn) Phải hiểu cảnh ngộ, số phận của Hàn Mặc Tử ta mới thấy hết sự “trìu mến” ấy của thi sĩ đáng trân trọng biết chừng nào! Và đây là lời nhắn gửi cuối cùng của thi sĩ: Ta trút linh hồn giữa lúc đây Gió sầu vô hạn nuối trong cây. Còn em, sao chẳng hay gì cả? Xin để tang anh đến vạn ngày. (Trút linh hồn) Có bản chép Gió sầu vô hạn thổi trong cây là vô tình làm tổn hại thơ Hàn Mặc Tử. Gió sầu vô hạn thổi trong cây thì bình thường quá. Câu thơ đã bị tước mất sự sống. Gió sầu vô hạn nuối trong cây mới thể hiện được nuối tiếc hết sức đau đớn của nhà thơ trước giây phút từ giã cõi đời. Phải thật tâm huyết với cuộc đời này thi sĩ mới viết được những câu thơ gan ruột như vậy. Đúng là “Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt”! Mấy năm lại đây chúng ta bàn nhiều về sự đổi mới của thơ. Cuộc sống thay đổi tất yếu thơ cũng phải thay đổi. Nhưng dù đổi mới thế nào đi nữa thì người làm thơ cũng phải có nhiệt huyết. Phải yêu ghét một cách chân thật. Nếu không có nhiệt huyết, nếu sống một cách hời hợt, giả dối thì nói như Hàn Mặc Tử: Máu đã khô rồi thơ cũng khô! Tôi cho đó là một quan niệm hết sức đúng đắn và sâu sắc mà những người làm thơ cần phải ghi nhớ. M.V.H (262/12-10) |
TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.
NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...
BẢO CHI (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...
ĐỖ LAI THÚY Văn là người (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.
ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.
TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.
TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?
HOÀNG NGỌC HIẾN ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...
THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.
TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.
ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.
ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…
HỒ THẾ HÀ Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.
JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...
PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...
HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.
HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.
NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.