Quan niệm của Xuân Diệu về phê bình văn học

10:50 15/05/2009
PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

Nhà thơ Xuân Diệu

Là nghệ sĩ bậc thầy, cùng với hệ thống quan niệm về nghệ thuật thi ca, trong những công trình vừa kể trên đây, Xuân Diệu còn thể hiện quan niệm nhất quán của mình về phê bình văn học, chủ yếu là phê bình thơ. Tìm hiểu những quan niệm ấy sẽ góp phần nhận thức và đánh giá một cách toàn diện hơn sự nghiệp văn học lớn lao của Xuân Diệu, đồng thời cũng có thể rút ra được những bài học bổ ích cho hoạt động phê bình, lý luận văn học của chúng ta hôm nay.

Trước hết, với Xuân Diệu, mỗi tác phẩm văn học nói chung, mỗi tập thơ nói riêng "là một cơ thể, một sinh vật", "một tác giả, một con người", do đó "khen hay chê chưa quan trọng bằng cảm thông, thấu hiểu"(2)

Nói "khen hay chê chưa quan trọng bằng thấu hiểu" có nghĩa là Xuân Diệu đã khẳng định sự cần thiết của khen, chê trong phê bình văn học. Bởi vì, theo ông, chê thơ mà không đúng thì rất có hại, sẽ làm nản người viết; nhưng khen thơ không đúng thì cũng rất có hại vì khuyến khích sự viết dở, và có một cái gì như là quảng cáo cho hàng không tốt, ngoài sự làm sai lạc khiếu thẩm mỹ của công chúng, còn phạm vào sự chân thật, sự thật thà. Như vậy, khen, chê một cách xác đáng, phê bình mới thực sự đóng vai trò hướng dẫn dư luận bạn đọc và thúc đẩy sáng tác. Cái hay, cái khó của phê bình văn học có khi cũng chính là ở chỗ này. Bởi lẽ, thái độ khen chê ấy không chỉ nói lên trình độ, tài năng, bản lĩnh mà còn thể hiện cả đạo đức của nhà phê bình. Dù muốn hay không thì phê bình cũng phải lựa chọn và đánh giá. Vốn đã từng tham gia giám khảo nhiều cuộc thi thơ, từng là Chủ tịch nhiều năm Hội đồng thơ của Hội Nhà văn Việt Nam, Xuân Diệu càng thấu hiểu cái khó khăn của công việc này. Trong hơn nửa thế kỷ, vừa là nhà thơ hàng đầu, vừa là "nhà luật pháp" đầy uy tín của nền thơ Việt Nam hiện đại, Xuân Diệu rất quan tâm đến việc khen, chê kịp thời để động viên phong trào sáng tác và khẳng định những thành tựu mới của từng tác giả, tác phẩm. Ý kiến của Xuân Diệu có lúc, có khi không tránh khỏi chủ quan, nhưng nhìn chung phần lớn đều được công chúng chờ đón, tin cậy. Ở những mức độ khác nhau, cả người đọc và người được phê bình đều lắng nghe, đón nhận.

Tuy nhiên, để phê bình thực sự thuyết phục, Xuân Diệu rất coi trọng niềm thông cảm, thấu hiểu giữa nhà phê bình và nhà sáng tác. Xuân Diệu còn nhấn mạnh và giải thích rõ hơn, thấu hiểu tư tưởng lập trường đã đành, còn cần phải thấu hiểu cả phương pháp cấu tứ, tạo hình, bút pháp, thói quen, cá tính của một nhà thơ. Mặt khác, như trên đã nói, mỗi tác phẩm là "một cơ thể", "một sinh vật", "một tác giả", "một con người” - cũng có nghĩa là, ở trên đời không có những nhà thơ trừu tượng, mà chỉ có những nhà thơ cụ thể, bằng xương bằng thịt, làm thơ trong một hoàn cảnh xã hội, gia đình, sức khoẻ cụ thể, trong một thời gian cụ thể của đời mình, tức là "một thi sĩ sống làm thơ, chứ không phải một thi sĩ trong óc người phê bình". Như vậy, nếu không dựa trên cơ sở cảm thông và thấu hiểu thực sự cặn kẽ, thì làm sao có thể khen, chê thoả đáng được.

Phê bình sở dĩ trở thành người bạn đường thường xuyên của văn học và không thể tưởng tượng được văn học mà thiếu phê bình vì công chúng muốn chiếm lĩnh tác phẩm nghệ thuật, chiếm lĩnh kho tàng văn hoá, họ rất cần sự môi giới của nhà phê bình nghiên cứu. Muốn làm được vai trò ấy, phê bình văn học không thể không hiểu thấu đáo về tác giả, tác phẩm và những kiến thức cần thiết khác.

Cũng theo Xuân Diệu, một niềm vui lớn mà văn học đưa đến cho tâm trí con người là sự hiểu biết, sự thấu hiểu, sự cảm thấu. Nếu được cảm thấu người ta sẽ sống lên gấp hai, gấp ba, nghĩa là sự sống tự nhân đến mức cao, là khám phá thấy loài người ở trong một bản thân mình. Vì thế, cần phải xác định, phê bình không phải là chỉ trích, nhà phê bình không phải là lên lớp bằng chủ quan của mình, mà nhiệm vụ chính của nhà phê bình trong quan niệm của Xuân Diệu là "giúp cho bạn yêu thơ hiểu một thời đại, một nền thơ, một nhà thơ".

Xuất phát từ quan niệm ấy, khi tìm về văn học quá khứ của dân tộc, Xuân Diệu luôn ý thức phải nói sao cho thấu lý đạt tình. Ông tra cứu, suy ngẫm từng bài thơ, ông gắn hoàn cảnh sáng tác với hoàn cảnh sống khi chưa có hướng đời của tác giả để cắt nghĩa một cách thấu đáo vẻ đẹp của nỗi buồn đau trong thơ ca xưa. Hoặc, khi "đọc một số ca dao kháng chiến của bộ đội", Xuân Diệu tâm sự:

"Tôi đọc đây, chưa phải như một nhà phê bình văn học, cân nhắc và đánh giá, mà như một người yêu mến, cảm thông - thực ra không phải tôi "đọc" mà ở đây, tôi sống với một số ca dao kháng chiến của bộ đội"(3)

Vậy là, "đọc" có nghĩa là "sống" với tác giả, tác phẩm. Sinh thời, trong phê bình, Xuân Diệu rất coi trọng việc đọc, đọc nhiều lần, nhiều cách để được cảm thấu bằng nhiều giác quan. Ông thường gọi cách đọc vội, đọc lướt không chịu lắng nghe kỹ tác phẩm là cách đọc "rất quan liêu", cách đọc "vô tâm" (Vô tâm chi lắm ai ơi! - Thơ hay rất kỵ cái người vô tâm). Ông còn dùng câu nói của Các Mác: một bản nhạc hay đến mấy cũng không có nghĩa lý gì đối với những lỗ tai không thẩm âm, và cả thành ngữ "đàn gảy tai trâu" để diễu người, và có khi cũng tự diễu mình chỉ vì vô tình không đọc kỹ mà bỏ sót cái hay cái đẹp hoặc chưa thấu hiểu đúng tác phẩm.

Phê bình văn học nói chung và bình luận thơ nói riêng còn thuộc phạm trù thẩm mỹ, phạm trù cái "gout", phạm trù khiếu thưởng thức. Nhà phê bình, người đọc thơ... có sở thích riêng của mình, còn người thi sĩ thì làm thơ với tư tưởng, tình cảm và với cả những tế bào của họ, không thể bảo anh ta đừng làm thơ với những tế bào riêng của anh ấy. Xuân Diệu phân tích cặn kẽ và cho rằng, đây là những vấn đề rất tinh diệu và cũng rất tế nhị. Nếu không cùng nhau thấu hiểu ở một quan niệm chung, một nhận thức chung, nếu không thực sự tôn trọng cá tính của nhau và thông cảm với nhau vì một chất lượng chung thì biết cãi nhau thế nào cho hết lẽ. Chính vì vậy, nhà phê bình không chỉ cần có lập trường quan điểm, vốn kiến thức, vốn hiểu biết nghề nghiệp kỹ thuật lao động thơ ca, mà còn phải có cái linh cảm của người nghệ sĩ chân chính, mới cảm được "cái hồn" toát ra từ tác phẩm; tức là phải có cái "linh nhãn" để "con mắt anh sắc hơn dao"; và theo ý Xuân Diệu, "con mắt sâu lại còn cao cường hơn con mắt sắc". Chỉ có như vậy, người phê bình mới tránh được bệnh hẹp hòi, mới vừa bộc lộ được cái "tạng" riêng của mình mà vẫn vượt qua được cái mình không được thích lắm, để phát hiện, biểu dương cái đẹp, cái khác lạ cùng với những ưu tú của một tập thơ, một thi sĩ. Xuân Diệu biểu đạt ý tưởng này trong niềm đầy cảm hiểu của người sáng tạo:

"Ta hãy khoan quy kết. Cái người lặn mò ở trong biển thực tại ra một con sò không thông thường quen mắt, người đó đã ở trong một cái thế chênh vênh rồi. Muốn cầu an, người đó có thể ném cái con sò hiện tượng kia xuống biển trở lại; nhưng vì yêu chân lý, muốn mở rộng tầm hiểu biết chung, người ấy đưa ra trình bày. Nếu chúng ta vội quy kết thì sẽ làm cho bao nhiêu người khác coi cái việc gặp những con sò lạ (chỉ lạ lúc đầu) là một cái tai vạ"(4)

Ở đây, dường như có sự gặp gỡ giữa Xuân Diệu, nhà thơ lãng mạn kiệt xuất và Nam Cao - nhà văn hiện thực sắc sảo nhất của nước ta, trong khát vọng "văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa ai có" (Đời thừa). Phê bình văn học, ở một góc độ nào đó, phải cùng chung khát vọng ấy mới thực sự là "người môi giới", là bà đỡ cho những công trình sáng tạo đầy trăn trở của người nghệ sĩ. Xuân Diệu thường yêu cầu nhà văn, nhà thơ không được "cầu an", càng ngày càng phải "nấu nướng cho tốt lành nhiều hơn nữa, thơm ngon nhiều hơn nữa", nhưng người đọc, người phê bình cũng không được "cầu an", phải "cải tạo cái lưỡi của mình" mới thưởng thức được cái hay, cái đẹp của tác phẩm.

Một quan niệm nổi bật của Xuân Diệu về phê bình văn học còn thể hiện ở yêu cầu "phê bình của chúng ta cần nêu được cái hay tuyệt với, hoàn mỹ của chúng ta phải vươn tới"(5)

Quan niệm trên xuất phát từ quy luật lao động sáng tạo của con người bao gồm cả quy luật lao động nghệ thuật, là bao giờ cũng hướng tới cái đẹp. Thơ vốn là tinh chất, là cái "nhụy" của đời sống, lại càng hướng tới sự biểu hiện một cách tập trung nhất vẻ đẹp tâm hồn, tình cảm con người. Vốn là nhà thơ lớn của niềm khát vọng "vô biên" và "tuyệt đích", trong phê bình, Xuân Diệu muốn hướng người đọc tới cái tuyệt vời, cái hoàn mỹ, tức là vẻ đẹp kết hợp hài hoà giữa giá trị nghệ thuật và giá trị nội dung trong tác phẩm. Đó cũng là cái bản lĩnh, bản sắc của tâm hồn và cuộc đời thi sĩ được biểu hiện qua văn chương của họ.

Bằng cảm thức thời gian, Xuân Diệu lập luận rằng, sở dĩ văn học phải hướng tới cái hay, cái đẹp vì dần dà qua sàng lọc của ngày tháng, những hạn chế sẽ không ai nhớ nữa, chỉ có những ưu điểm, ưu tú mới sống, vì nó thuộc về "cây đời mãi mãi xanh tươi"; công chúng độc giả thì ai cũng muốn hưởng thụ cái hay, cái đẹp. Mặt khác, từ thực tiễn sáng tạo, Xuân Diệu cũng thấy rằng, rất khó tìm những nhà thơ, kể cả những nhà thơ lớn mà không có khuyết điểm, nhược điểm. Nhiều khi nhược điểm còn nặng nữa; nhưng tất cả vấn đề nằm ở chỗ: nhà thơ có ưu tú gì không? Nếu có những ưu tú, ưu việt, thì công chúng có thể trừ bì cho cả những nhược điểm lớn, để chỉ còn lại phần đóng góp của nhà thơ. Có điều phần đóng góp của một tác phẩm nhất định không thể là trung bình, vì đứng về tác phẩm mà nói, trung bình là không còn lại được gì, nghĩa là không đóng góp.

Xuân Diệu thường hay nhắc đến lời than thở của nhà thơ Pháp nổi tiếng thế kỷ XIX Alfred de Vigny về "cái khuynh hương xấu xí của sự phê bình": "Họ thích làm sống những người chết và làm chết những người sống". Ông mong sao phê bình hôm nay phấn đấu đừng cho căn bệnh ấy tái diễn, phải đấu tranh trên hai mặt để làm sống lại đẹp đẽ những nhà văn có tài đã qua và biểu dương xứng đáng những nhà văn có tài đang sống.

Cùng với sáng tác thơ ca, trong cuộc đời lao động nghệ thuật của mình, sau "Thơ Thơ" "Gửi hương cho gió", Xuân Diệu đã dành nhiều thời gian và công sức cho hoạt động phê bình nghiên cứu văn học. Ông lắng nghe chăm chú "Tiếng thơ" từ khắp mọi miền đất nước; ông công phu, tỉ mẩn chọn lựa từ hàng trăm, hàng nghìn bài thơ để vừa chỉ ra những hạn chế, vừa biểu dương kịp thời phong trào sáng tác và thành tựu của các nhà thơ thuộc nhiều thế hệ. Ông sưu tầm, học tập ở ca dao vẻ đẹp chân chất, giản dị của cuộc sống và tâm hồn người lao động. Ông tìm hiểu một cách có hệ thống và làm sống lại đẹp đẽ những nhà thơ cổ điển dân tộc, từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát... đến những Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Nguyễn Đình Chiểu,...

Không phải ngẫu nhiên mà Xuân Diệu rất tâm đắc, mến phục nhà phê bình nổi tiếng của văn học Trung Quốc - Kim Thánh Thán (1950-1648). Phải chăng, Xuân Diệu đã bắt gặp ở đây quan niệm phê bình văn học gần gũi với chính mình. Phê bình dù đề cập đến xưa hay nay, đều không phải chỉ trả lời những vấn đề của quá khứ hoặc hiện tại mà còn là câu chuyện "tấc lòng" gửi đến mai sau; trong cái mục đích phục vụ vì mọi người, còn có cả "vì chính mình", vì "mình muốn làm duyên với người đời sau", muốn buộc người đời sau phải nhớ đến tên tuổi của mình.

Rõ ràng với ý thức như vậy, phê bình văn học sẽ là nỗi niềm canh cánh bên lòng, là một nhu cầu của nội tâm; sẽ không đơn thuần lý lẽ mà tràn đầy cảm hứng. Nó xa lạ với thứ phê bình máy móc, áp đặt vì những mục đích ngoài văn học.

P.N.T
(171/05-03)

------------------------------
1. Nhiều tác giả: Xuân Diệu - Con người và tác phẩm - Nxb Tác phẩm mới-H.1987, Tr.136
2. Xuân Diệu:
Dao có mài mới sắc - Nxb. Văn học-H.1963, Tr.142
3. Xuân Diệu:
Dao có mài mới sắc - Nxb. Văn học-H.1963, Tr.173
4. Xuân Diệu:
Dao có mài mới sắc - Nxb. Văn học-H.1963, Tr.126
5. Xuân Diệu, sđd, trang 135

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VÕ VĨNH KHUYẾNBa mươi năm, sau khi Bác qua đời (1969 - 1999) có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều chuyên luận và khá nhiều bài viết trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước về thơ, văn của Bác. Quy mô và mức độ có khác nhau. Tuy vậy, vẫn có chỗ chưa được khảo sát một cách đầy đủ, chưa được đầu tư nghiên cứu một cách thỏa đáng. Trong phạm vi, khả năng cá nhân và nội hàm vấn đề, chúng tôi mạnh dạn trình bày một số suy nghĩ về thơ Bác viết cho thiếu nhi.

  • NGÔ TỰ LẬP(Tiếp theo TCSH số 127/9-99)

  • NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.

  • ĐÀO DUY HIỆP    “Hội làng mở giữa mùa thu     Giời cao gió cả giăng như ban ngày”                                            (Nguyễn Bính)

  • YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...

  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.

  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.